Ông Lê Thái Hòa - Tham tán Thương mại Việt Nam tại Israel đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương về FTA Việt Nam – Israel sau khi kết thúc đàm phán.
Thưa ông, Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam – Israel đã chính thức kết thúc đàm phán và dự kiến ký kết ngay trong năm 2023. Được biết, Hiệp định này đã được đàm phán trong thời gian 7 năm với 12 phiên đàm phán. Xin ông cho biết một số đánh giá về ý nghĩa của hiệp định với quan hệ giữa Việt Nam và Israel?
Ngày 02/4/2023, tại thành phố Jerusalem, Israel, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat đã thay mặt hai chính phủ ký Biên bản Tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do song phương giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước Israel (VIFTA).
Trải qua 12 phiên đàm phán trong suốt 7 năm, vượt qua những bất đồng, khó khăn, thách thức, nhất là trong thời gian diễn ra đại dịch Covid-19, trên tinh thần thiện chí và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã thu hẹp dần khoảng cách để cuối cùng đạt được thỏa thuận phù hợp với mong muốn và lợi ích của cả hai nước. Hai bên đang rà soát các nội dung kỹ thuật và pháp lý để tiến tới sớm chính thức ký kết VIFTA trong thời gian tới.
Đây là Hiệp định thương mại tự do song phương đầu tiên Việt Nam đã kết thúc đàm phán với một quốc gia ở khu vực Tây Á (Trung Đông) và đây cũng là Hiệp định thương mại tự do song phương đầu tiên Israel kết thúc đàm phán với một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á (ASEAN).
Về phía Israel, VIFTA là Hiệp định thương mại tự do song phương thứ 2 mà Israel đã kết thúc đàm phán với đối tác ở khu vực Đông Á (Israel đã kết thúc đàm phán và ký FTA với Hàn Quốc). Xét trên bình diện toàn khu vực châu Á, gần đây, Việt Nam là đối tác thứ 3 mà Israel đã kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do song phương, sau khi Israel ký kết các FTA với Hàn Quốc vào tháng 5/2021 và với UAE vào tháng 5/2022 (không tính những hiệp định thế hệ cũ trước đây Israel ký với Jordan năm 1995 và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1996).
Việt Nam và Israel đã ký Hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại vào năm 2004. Với việc kết thúc đàm phán Hiệp định VIFTA và dự kiến sẽ được chính thức ký kết trong thời gian tới đây, khung khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư… giữa hai nước sẽ được nâng cấp lên tầm phạm vi rộng hơn, với nhiều lĩnh vực hợp tác cụ thể hơn. Từ đó, tạo thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động trao đổi thương mại, hợp tác đầu tư, dịch vụ… giữa cộng đồng doanh nghiệp hai nước.
Đặc biệt là mở cửa thị trường cho hàng hóa của mỗi bên có điều kiện thâm nhập mạnh hơn nữa vào thị trường của nhau. Qua đó, mở ra một chương mới về giai đoạn phát triển trong quan hệ hợp tác song phương, góp phần tiếp tục tăng cường và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác toàn diện nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại - đầu tư nói riêng giữa hai nước.
(Ông Lê Thái Hòa - Tham tán Thương mại Việt Nam tại Israel)
Dù không phải đối tác lớn của Việt Nam, song Israel được đánh giá là đối tác tiềm năng vì hàng hóa giữa hai nước mang tính bổ trợ cho nhau. Xin ông cho biết đánh giá về cơ hội của hàng Việt Nam xuất khẩu sang quốc gia này sau khi FTA được ký kết?
Mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn, với quy mô dân số xấp xỉ 9,7 triệu người, nhưng hoạt động kinh tế và ngoại thương của Israel khá phát triển. Năm 2022, thu nhập đầu người đạt xấp xỉ 55.000 USD; kim ngạch ngoại thương đạt 173 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 67 tỷ USD và nhập khẩu đạt 106 tỷ USD. Hàng năm, Israel có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại hàng hóa để đáp ứng nhu cầu ở trong nước.
Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Israel gồm máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, hàng đầu tư, nhiên liệu xăng dầu, kim cương thô... Về nhóm hàng tiêu dùng, mỗi năm Israel nhập khẩu đạt 25 tỷ USD, cụ thể bao gồm các mặt hàng như: lương thực thực phẩm, đồ uống các loại, quần áo, giầy dép, nội thất, hàng điện tử, thiết bị điện, hàng gia dụng, dược phẩm….
Nhìn chung, các doanh nghiệp Israel kinh doanh năng động, thích ứng nhanh với biến động thị trường, làm ăn khá bài bản và nghiêm túc, giao dịch nhanh, luôn chủ động tìm kiếm đối tác bạn hàng qua nhiều kênh khác nhau, có nhu cầu đa dạng và sức mua ổn định, khả năng thanh toán cao và cơ bản sòng phẳng, sẵn sàng đặt cọc hoặc trả tiền trước, thích gặp gỡ trực tiếp đối tác bạn hàng và đến tận nơi xem hàng hóa tại nhà máy sản xuất, thường tiếp cận đối tác cung cấp riêng biệt theo nhóm lẻ và tránh đi theo nhóm đông, muốn mua hàng trực tiếp của nhà sản xuất và không muốn qua trung gian.
Như tôi đã nói ở trên, mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn nhưng nhu cầu nhập khẩu khá lớn, vòng quay tiêu dùng ở thị trường Israel nhanh, thể hiện ở trị giá nhập khẩu hàng hóa tăng mạnh hàng năm. Ngoài ra, tập quán và thói quen kinh doanh của các doanh nghiệp Israel là muốn mua hàng thành phẩm, đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao, được đóng gói sẵn bao bì hoàn chỉnh, nhất là đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng (thủy hải sản, hạt điều, cà phê, hạt tiêu, nước giải khát, bánh kẹo, quế, dệt may, giày dép các loại…), kể cả hàng điện tử và hàng gia dụng, để mang về đưa vào các kênh phân phối hoặc chuỗi siêu thị bán lẻ cho người tiêu dùng có thể sử dụng được ngay sau khi mua hàng.
Trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Israel không ngừng tăng nhanh từ 1,58 tỷ USD trong năm 2020 lên 1,89 tỷ USD trong năm 2021 và đạt 2,23 tỷ USD trong năm 2022, tăng 17,85% so với năm trước đó. Hiện tại, Israel là đối tác thương mại lớn thứ 5 và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam tại khu vực Trung Đông (sau UAE và Thổ Nhĩ Kỳ). Ngược lại, Việt Nam là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Israel ở khu vực Đông Nam Á (ASEAN). Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước có tính chất bổ sung cho nhau, những mặt hàng Israel cần nhập khẩu cũng là những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam và ngược lại.
Những năm gần đây, Việt Nam xuất khẩu sang Israel đạt trên dưới 780 triệu USD/năm. Cụ thể, năm 2021 xuất khẩu tăng 14,2% so với năm trước đó và năm 2022 xuất khẩu sang Israel đạt 785,7 triệu USD. Xét trên dung lượng thị trường, trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Israel/quy mô 9,7 triệu dân sở tại đạt tỷ lệ khá cao. Hiện xuất khẩu của Việt Nam đã khôi phục đà tăng trưởng sang thị trường này. Trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sang Israel đạt 125,5 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến, nếu tình hình thị trường diễn biến thuận lợi, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel trong cả năm 2023 có thể đạt khoảng 850 triệu USD.
(Hạt điều là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Israel)
Về cơ cấu mặt hàng, mỗi năm có khoảng trên dưới 70 diện mặt hàng các loại của Việt Nam được xuất khẩu sang Israel. Năm 2022, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm có điện thoại di động và linh kiện đạt 293,2 triệu USD, hàng thủy hải sản đạt 80,4 triệu USD (gồm tôm, mực đông lạnh, cá ngừ đóng hộp, cá tra…), nông sản các loại (như hạt điều đạt 59,8 triệu USD, cà phê đạt 24,3 triệu USD, gia vị các loại…), giày dép đạt 92,3 triệu USD, hàng dệt may đạt 32,8 triệu USD. Ngoài ra, còn có các mặt hàng xuất khẩu khác như: hàng điện tử, máy móc thiết bị điện, hàng gia dụng, đồ nhà bếp, nước giải khát, lương thực thực phẩm chế biến sẵn thuộc nhóm hàng khô, bánh kẹo, trái cây chế biến sấy khô và đóng hộp…
Trong năm 2022, điện thoại di động và linh kiện là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng 37,3%. Các mặt hàng còn lại thuộc nhóm hàng lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng gia dụng, quần áo, giày dép, hàng điện tử… chiếm tỷ lệ 62,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Israel. Cà phê, hàng dệt may, giày dép là các mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng mạnh từ 20%-50%.
Đối với nhóm hàng thủy hải sản, hàng năm, Israel thuộc trong Top 22 thị trường hàng đầu trong số trên 100 thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Đáng chú ý, trong năm 2022, xuất khẩu cá ngừ sang Israel đạt 36,63 triệu USD và Israel đứng thứ 4 trong số 10 thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam (sau Mỹ, Canada và Nhật Bản); xuất khẩu mực đông lạnh sang thị trường này đạt 23,22 triệu USD, chiếm tỷ trọng 1,7% xuất khẩu mặt hàng này của cả nước và Israel đứng thứ 8 trong số 10 thị trường nhập khẩu mực và bạch tuộc hàng đầu của Việt Nam; xuất khẩu tôm đông lạnh sang Israel đạt khoảng 21 triệu USD và Israel đứng thứ 20.
Các doanh nghiệp của Việt Nam cần tranh thủ khai thác cơ hội xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao sang thị trường Israel, nhất là sau khi VIFTA được chính thức ký kết sẽ mở cửa thị trường và giảm thuế cho hàng xuất khẩu của ta.
Theo ông, doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm gì để xuất khẩu sang Israel thuận lợi hơn? Đặc biệt là doanh nghiệp cần chuẩn bị gì để tận dụng được hiệu quả nhất các lợi ích từ FTA Việt Nam – Israel sau khi được ký kết?
Thứ nhất, bên cạnh những thị trường truyền thống, chúng ta cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng các thị trường mới, thị trường ngách, thị trường ở xa…. Việc hai bên kết thúc đàm phán và dự kiến chính thức ký kết Hiệp định VIFTA trong thời gian tới sẽ góp phần mở cửa thị trường, giảm thuế, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tiếp tục tiếp cận và thâm nhập mạnh hơn nữa vào thị trường Israel.
Thứ hai, mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn nhưng nhu cầu nhập khẩu khá lớn, vòng quay tiêu dùng ở thị trường Israel nhanh, thể hiện ở trị giá nhập khẩu hàng hóa tăng mạnh hàng năm. Tập quán và thói quen kinh doanh của các doanh nghiệp Israel là muốn mua hàng thành phẩm, đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao, được đóng gói sẵn bao bì hoàn chỉnh, nhất là đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng (thủy hải sản, hạt điều, cà phê, hạt tiêu, nước giải khát, bánh kẹo, quế, dệt may, giày dép các loại…), kể cả hàng điện tử và hàng gia dụng, để mang về đưa vào các kênh phân phối hoặc chuỗi siêu thị bán lẻ cho người tiêu dùng có thể sử dụng được ngay sau khi mua hàng.
Đây chính là những yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam tranh thủ khai thác cơ hội xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao sang thị trường Israel.
Thứ ba, đối với tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, Israel yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn bản địa nhiều khi mang tính chất đặc thù. Bên cạnh đó, Israel cũng áp dụng theo các tiêu chuẩn của EU, Mỹ và thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát khá nghiêm ngặt. Để tăng cường nguồn cung cấp hàng hóa từ bên ngoài và tính cạnh tranh trên thị trường, Israel đã thực hiện một số cải cách nhập khẩu và tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế được công nhận ở những nước phát triển.
Về việc này, Thương vụ Việt Nam tại Israel đã xuất bản các ấn phẩm Sổ tay các quy định, tiêu chuẩn nhập khẩu nông sản và thực phẩm vào Israel trong năm 2021; ấn phẩm Sổ tay rà soát chính sách nhập khẩu mới của Israel trong năm 2022. Các doanh nghiệp có thể tham khảo các ấn phẩm này đã được Thương vụ đăng tải công bố trên các trang mạng internet.
Thứ tư, thời gian qua, Thương vụ thường xuyên cung cấp các thông tin về diễn biến thị trường, các thay đổi về chính sách thương mại và quy định nhập khẩu mới, xuất bản các ấn phẩm hướng dẫn doanh nghiệp, định hướng mặt hàng xuất khẩu, cơ hội giao thương, trực tiếp giới thiệu đối tác bạn hàng, đăng tải danh sách các công ty kinh doanh của Israel có nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp và đối tác tại Việt Nam, giúp xác minh thẩm tra tư cách pháp nhân, tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại và kết nối giao thương, tham dự các triển lãm giới thiệu quảng bá mặt hàng xuất khẩu và doanh nghiệp Việt Nam để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường và thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh với đối tác tại Israel.
Thứ năm, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Việt Nam cần chú trọng chào hàng các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, với giá cả cạnh tranh sát thực và chất lượng phù hợp, trả lời nhanh chóng các giao dịch với khách hàng người mua Israel, tuân thủ các yêu cầu về tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu của Israel mới ban hành.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực quan tâm, đầu tư khai thác thị trường Israel; cụ thể là chủ động sang khảo sát, tìm hiểu thị trường, tham dự các hội chợ, triển lãm, sự kiện xúc tiến thương mại, kết nối giao thương được tổ chức tại Israel, trực tiếp gặp gỡ đối tác bạn hàng để phát hiện ra nhu cầu hợp tác của nhau, qua đó góp phần thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên theo dõi sát những diễn biến về an ninh chính trị tại Israel, do đây là địa bàn nhạy cảm về các xung đột và bất ổn có ảnh hưởng tới toàn bộ khu vực, để có đối sách kịp thời về các giao dịch ký kết hợp đồng mua bán, chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu và bảo đảm lợi ích kinh doanh.
Cuối cùng, trong trường hợp cần thiết, các doanh nghiệp nên liên hệ với Thương vụ-Đại sứ quán Việt Nam tại Israel để được hỗ trợ và tư vấn kịp thời cũng như được cung cấp các thông tin hữu ích khi giao dịch, hợp tác kinh doanh với các đối tác bạn hàng tại thị trường Israel.
Xin cảm ơn ông!
Phương Lan (thực hiện) - Báo Công Thương