Kim ngạch xuất khẩu chè năm 2023 giảm gần 11% so với năm 2022. Ngoài nguyên nhân do nhu cầu tiêu dùng chè suy giảm ở các thị trường xuất khẩu, thì ngành chè nước ta chậm nâng cao chất lượng sản phẩm, chậm đầu tư vào chế biến sâu và ít nghiên cứu sản phẩm mới khiến xuất khẩu chè sa sút.
Cần liên kết nông dân trồng chè gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Theo số liệu từ Tông cục Hải quan, xuất khẩu chè năm 2023 ước đạt 121 nghìn tấn, trị giá 211 triệu USD, giảm 16,9% về lượng và giảm 10,9% về trị giá so với năm 2022. Riêng trong quý 4/2023 xuất khẩu chè ước đạt 39.300 tấn, trị giá 70 triệu USD, tăng lần lượt 16,7% về lượng và 18,1% về trị giá so với quý 3/2023. So với cùng kỳ năm 2022, mặc dù lượng chè xuất khẩu giảm 22,1% nhưng lại tăng 1,4% về kim ngạch.
CHÈ XANH CHIẾM 94% TRONG TỔNG LƯỢNG CHÈ XUẤT KHẨU
Cục Chất lượng chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết các yếu tố chính khiến hoạt động xuất khẩu chè của Việt Nam giảm đáng kể trong năm 2023 là do nhu cầu thị trường yếu và các quy định nhập khẩu ngày càng khắt khe tại các thị trường chính. Bên cạnh đó, chủng loại chè xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu ở dạng thô, hàm lượng chế biến thấp.
Trong năm 2023, xuất khẩu chè sang các thị trường chính như Pakistan, Đài Loan và Nga đều giảm, bởi kinh tế các nước này vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn. Tình trạng thiếu ngoại tệ của Pakistan khiến nhiều doanh nghiệp nhập khẩu nước này không thể mua được ngoại tệ để thanh toán cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Pakistan, cơ quan hải quan Pakistan quy định tất cả các lô hàng nhập khẩu tồn đọng trong cảng quá thời hạn 30 ngày sẽ bị đưa vào danh sách tịch thu bán đấu giá. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu mặt hàng chè nói riêng của Việt Nam tới thị trường Pakistan cần lưu ý đối với các lô hàng bị chậm thanh toán, đặc biệt là quá thời hạn 30 ngày kể từ thời điểm hàng đến cảng Karachi cần báo cho Thương vụ Việt Nam tại Pakistan để phối hợp xử lý, không để phát sinh chi phí và tiền phạt của cảng và hãng tàu và bị cơ quan hải quan Pakistan tịch thu bán đấu giá.
Mặc dù giá chè xuất khẩu của Vệt Nam trong năm 2023 đã tăng hơn 7% so với năm 2022, tuy nhiên mức giá này mới chỉ bằng chưa tới 70% so giá chè xuất khẩu bình quân trên thế giới. Giá chè xuất khẩu bình quân toàn cầu trong năm 2023 đạt 2.600 USD/tấn.
Những năm qua, trong khi nhu cầu tiêu dùng chè trên thế giới đã thay đổi rất nhanh, chuyển từ các sản phẩm chè thông thường, sang các sản phẩm chè chế biến sâu, chè đặc sản. Tuy nhiên, ngành chè Việt Nam vẫn chậm nâng cao chất lượng sản phẩm, chậm đầu tư vào chế biến sâu và ít nghiên cứu đầu tư vào sản phẩm mới… đang là những nguyên nhân khiến sản phẩm chè Việt mất thế cạnh tranh.
Hiện sản phẩm chè xanh vẫn chiếm tới 94% trong tổng khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, đây là sản phẩm chè cấp thấp nhất, chủ yếu chỉ sử dụng phương pháp sao sấy truyền thống, chưa qua công đoạn chế biến sâu.
Trong khi đó, các sản phẩm chè phẩm cấp cao như chè đen, chè ướp hoa, chè ô long… chỉ chiếm 6% trong tổng khối lượng chè xuất khẩu. Mặc dù giá xuất khẩu các loại chè chế biến sâu này rất cao (giá xuất khẩu chè ướp hoa của Việt Nam năm 2023 đạt 2.100 USD/tấn; chè ô long xuất khẩu đạt giá 2900 USD/tấn), nhưng do lượng xuất khẩu quá thấp, nên kim ngạch xuất khẩu không đáng kể.
Về chủng loại sản phẩm chè xuất khẩu năm 2023, dẫn đầu về lượng và trị giá là chủng loại chè xanh với 57.500 tấn, trị giá 113,5 triệu USD, giảm 6,9% về lượng và giảm 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tiếp đến là chủng loại chè đen đạt 46.000 tấn, trị giá 62,4 triệu USD, giảm lần lượt 16 % về lượng và 18 % về trị giá; chè ướp hoa đạt 3.800 tấn, trị giá 8 triệu USD, giảm 4,7% về lượng nhưng tăng 6,5% về trị giá. Đáng chú ý, xuất khẩu chè ô long đạt 1.300 tấn, trị giá 3,8 triệu USD, tăng 102% về lượng và tăng 107% về trị giá so với năm 2022.
CẦN ĐẦU TƯ CHẾ BIẾN SÂU, PHÁT TRIỂN NHIỀU SẢN PHẨM MỚI
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện cả nước có 120 nghìn ha diện tích trồng chè. Cả nước có 257 doanh nghiệp chế biến chè quy mô công nghiệp, tổng công suất theo thiết kế 5,2 nghìn tấn búp tươi/ngày, sử dụng 220 nghìn lao động sản xuất ra gần 200 nghìn tấn sản phẩm mỗi năm.
Trong hoạt động chế biến chè, một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến hiện đại, sản xuất theo hướng đa dạng hóa sản phẩm cho nên giá trị từng bước được nâng cao. Tuy nhiên trên thực tế, sản xuất chè ở Việt Nam còn nhiều yếu kém. Việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cũng như sản xuất theo hướng hữu cơ đã được triển khai từ nhiều năm qua nhưng đến nay vẫn đạt tỷ lệ còn thấp; quản lý chất lượng giống và các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây chè ở một số địa phương còn lỏng lẻo, chế tài xử lý còn nhiều khó khăn.
Hiện sản xuất chè theo nông hộ chiếm gần 65% về diện tích, quy mô khoảng 0,2 ha/hộ; tình trạng thu gom nguyên liệu qua nhiều cấp làm tăng giá nguyên liệu đầu vào, kéo dài thời gian bảo quản, làm giảm chất lượng nguyên liệu, tăng chi phí đầu tư.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt ra mục tiêu phát triển ngành chè bền vững, theo hướng hiện đại, đồng bộ, sản xuất hàng hóa, các sản phẩm đa dạng có chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm mang lại giá trị gia tăng cao, nâng cao thu nhập cho người sản xuất và kinh doanh. Mục tiêu đến năm 2030, diện tích trồng chè của Việt Nam đạt từ 135 đến 140 nghìn ha; phấn đấu đến năm 2025 diện tích chè được chứng nhận an toàn lên 55% và đến năm 2030 khoảng 75%.
Để đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường lớn trên thế giới và nâng cao kim ngạch xuất khẩu chè, ngành chè Việt Nam phải đẩy mạnh sản xuất chè theo hướng an toàn; khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất chè ứng dụng công nghệ cao, chú trọng tăng nhanh tỷ trọng những sản phẩm có giá trị cao và sản phẩm mới.
Đặc biệt, các doanh nghiệp cần đầu tư vào chế biến sâu sản phẩm chè, giảm sản lượng chè xanh, tăng các sản phẩm chf chế biến sâu và chè đặc sản, như chè ô long, chè lên men, hồng trà, bạch trà, chè ướp hương thơm từ các loại hoa… Các địa phương cần thúc đẩy sản xuất chè theo hướng an toàn; khuyến khích nhân dân sản xuất chè ứng dụng công nghệ cao, sinh học, sản xuất nông nghiệp hữu cơ; hỗ trợ nhân dân liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.