Bản tin thị trường Đức - số tháng 2.2025, do Thương vụ Việt Nam tại Đức tổng hợp.
Tình hình ngoại thương của Đức tháng 12 và 12 tháng năm 2024
Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 12 năm 2024
131,7 tỷ euro
+2,9% so với tháng trước
+3,4% so với cùng tháng năm trước
Xuất khẩu trong 12 tháng năm 2024 đạt 1.559,7 tỷ euro, giảm 1% so với 12 tháng năm 2023
Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 12 năm 2024
111,1 tỷ euro
+2,1% so với tháng trước
+4,5% so với cùng tháng năm trước
Nhập khẩu trong 12 tháng năm 2024 đạt 1.318,5 tỷ euro, giảm 2,8% so với 12 tháng năm 2023
Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 12 năm 2024 là +20,7 tỷ euro, cả năm 2024 là 241,2 tỷ euro.
Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 72,4 tỷ euro vào tháng 12 năm 2024, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 57 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 11 năm 2024, xuất khẩu sang các nước EU tăng 5,9% và nhập khẩu từ các nước này tăng 3,6%.
Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 59,3 tỷ euro vào tháng 12.2024, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 54,1 tỷ euro. So với tháng 11 năm 2024, xuất khẩu sang các nước ngoài EU giảm 0,5%; nhập khẩu tăng 0,5%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ giảm 3,5% so với tháng 11 năm 2024, với giá trị xuất khẩu 13,5 tỷ euro. Xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 1,4% đạt 6,7 tỷ euro, trong khi xuất khẩu sang Vương quốc Anh giảm 6,6% đạt 6,7 tỷ euro.
Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 12 năm 2024 đến từ Trung Quốc trị giá 13,4 tỷ euro, giảm 1% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng 3% đạt 7,5 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh giảm 3% đạt 3 tỷ euro trong cùng kỳ.
Giá nhập khẩu, tháng 12 và năm 2024
+2% so với cùng tháng năm trước
+0,4% so với tháng trước
-1,2% trung bình cả năm 2024 so với năm 2023
Giá hàng tiêu dùng tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước (+0,5% vào tháng 11 năm 2024) có tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu trong tháng 12 năm 2024.
Giá hàng nông sản nhập khẩu tăng 8,6% vào tháng 12 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước (+0,3% so với tháng 11 năm 2024). Đặc biệt, giá ca cao thô tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước (+135,5%) và tăng 11,0% so với tháng trước. Giá cà phê xanh tăng 43,9% so với tháng 12 năm 2023 và tăng 2,4% so với tháng 11 năm 2024. Ngược lại, giá hành tây (-36,5%), dưa chuột (-32,0%), cà chua (-28,0%), cải Brussels, súp lơ và bông cải xanh (-19,3%) và lợn sống (-15,8%) chẳng hạn, đã giảm so với năm trước.
Giá hàng hóa trung gian cao hơn 1,4% so với cùng kỳ năm trước (+0,1% vào tháng 11 năm 2024), giá hàng hóa vốn tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước (+0,2% vào tháng 11 năm 2024).
Giá năng lượng nhập khẩu cũng đắt hơn so với tháng 12 năm 2023 (+0,4%). So với tháng 11 năm 2024, giá ở đây tăng trung bình 1,3%.
Giá xuất khẩu, tháng 12 và năm 2024
+1,8% so với cùng tháng năm trước
+0,3% so với tháng trước
+0,3% trung bình cả năm 2024 so với năm 2023
Việc tăng giá hàng tiêu dùng vào tháng 12 năm 2024 có ảnh hưởng lớn nhất đến diễn biến giá cả, với giá của những mặt hàng này tăng 3,6% vào tháng 12 năm 2023 (+0,4% vào tháng 11 năm 2024). Trong khi hàng tiêu dùng bền đắt hơn 1,1% so với cùng kỳ năm trước, giá của hàng tiêu dùng không bền cao hơn 4,1% so với tháng 12 năm 2023. Giá cao hơn được ghi nhận đặc biệt đối với ca cao xuất khẩu, sô cô la và bánh kẹo đường (+49,2%), chủ yếu bao gồm bột ca cao, bơ ca cao, chất béo và dầu và bột ca cao (+182,7%). Xuất khẩu bơ và bơ sữa đắt hơn 42,2% so với tháng 12 năm 2023. Cà phê, đã khử caffein hoặc rang, có giá cao hơn 28,3% so với tháng 12 năm 2023.
Giá của các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu cao hơn 2,6% so với tháng 12 năm 2023 (+2,4% vào tháng 11 năm 2024).
Giá hàng hóa vốn xuất khẩu cũng tăng từ tháng 12 năm 2023 (+1,5%). Mức tăng giá theo năm đối với cả máy móc và xe cơ giới cùng động cơ của chúng (+2,1% trong mỗi trường hợp) đóng vai trò quan trọng ở đây. Giá hàng hóa vốn tăng 0,2% so với tháng 11 năm 2024.
Xuất khẩu hàng hóa trung gian đắt hơn 1,1% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, giá này tăng nhẹ 0,1%.
Ngược lại, giá xuất khẩu năng lượng thấp hơn 0,8% so với cùng kỳ năm trước, nhưng tăng 1,7% so với tháng 11 năm 2024. Giá khí đốt tự nhiên (-6,6%) và các sản phẩm dầu khoáng (-5,6%) thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, so với tháng 11 năm 2024, giá xuất khẩu khí đốt tự nhiên đắt hơn 5,4% và giá các sản phẩm dầu khoáng tăng 0,6%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 1 năm 2025
+2,3% so với tháng 1/2024
-0,2% so với tháng 12/2024
Tỷ lệ lạm phát ở Đức, được đo bằng sự thay đổi theo năm của chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đứng ở mức +2,3% vào tháng 1 năm 2025. Điều này có nghĩa là tỷ lệ lạm phát đã tăng trở lại. Vào tháng 12 năm 2024, lạm phát cao hơn một chút, ở mức +2,6%. Cục Thống kê Liên bang (Destatis) cũng báo cáo rằng tốc độ tăng giá thực phẩm đã chậm lại. Ngoài ra, sự phát triển của giá năng lượng cũng có tác động giảm xuống đối với lạm phát vào tháng 1 năm 2025. Mặt khác, mức tăng trên mức trung bình của giá dịch vụ tiếp tục đẩy lạm phát lên cao. So với tháng 12 năm 2024, giá tiêu dùng đã giảm 0,2% vào tháng 1 năm 2025.
Giá sản phẩm năng lượng trong tháng 1 năm 2025 thấp hơn 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Mức giảm giá đã ở mức -1,6% vào tháng 12 năm 2024. Vào tháng 1 năm 2025, giá cả nhiên liệu động cơ (-0,1%) và năng lượng gia dụng (-2,5%) đều giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó người tiêu dùng được hưởng lợi từ giá dầu sưởi ấm (-1,2%), điện (-3,6%) và củi, viên gỗ và các nhiên liệu rắn khác (-8,7%). Tuy nhiên, ở một số khu vực, tốc độ giảm giá đã chậm lại đáng kể so với năm trước. Hơn nữa, khí đốt tự nhiên (+0,5%) và hệ thống sưởi ấm khu vực (+9,8%) đắt hơn so với cùng kỳ năm trước. Diễn biến giá trong tháng 1 năm 2025 có khả năng cũng bị thúc đẩy bởi giá carbon tăng, phụ phí điện cao hơn và phí lưới điện khí đốt cao hơn.
Giá thực phẩm cao hơn 0,8% vào tháng 1 năm 2025 so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng giá thực phẩm đã chậm lại đáng kể, sau mức tăng 2,0% vào tháng 12 năm 2024. So với tháng 1 năm 2024, mức tăng giá đáng kể vẫn được ghi nhận đối với chất béo và dầu ăn vào tháng 1 năm 2025 (+15,1%, bao gồm bơ: +32,6%). Mức tăng giá đối với các sản phẩm từ sữa và trứng (+2,7%) cũng vẫn cao hơn đáng kể so với lạm phát chung. Ngược lại, mức tăng giá nhỏ hơn hoặc không tăng chút nào được ghi nhận đối với một số nhóm thực phẩm như bánh mì và ngũ cốc (+1,2%), thịt và các sản phẩm từ thịt (0,0%) và rau (-2,3%).
Sản xuất trong công nghiệp
Tháng 12 năm 2024 (theo thực tế, tạm thời):
-2,4% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)
-3,1% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)
Diễn biến tiêu cực của sản xuất trong tháng 12 năm 2024 chủ yếu là do sự sụt giảm trong ngành ô tô (-10,0% so với tháng trước, điều chỉnh theo mùa và theo lịch). Sự sụt giảm sản lượng được quan sát thấy trong bảo trì và lắp ráp máy móc (-10,5%) cũng tác động tiêu cực đến kết quả chung. Ngược lại, tăng trưởng sản xuất trong ngành dược phẩm (+11,6%) có tác động tích cực đến kết quả.
Vào tháng 12 năm 2024, sản lượng trong ngành công nghiệp không bao gồm năng lượng và xây dựng đã giảm 3,3% so với tháng 11 năm 2024. Sản lượng hàng hóa vốn giảm 4,7% và sản lượng hàng hóa trung gian giảm 3,3%. Tuy nhiên, sản lượng hàng tiêu dùng tăng 0,9%. Ngoài ngành công nghiệp, sản lượng năng lượng trong tháng 12 năm 2024 đã tăng 1,1% so với tháng trước. Sản lượng trong ngành xây dựng vẫn ở mức của tháng trước (0,0%).
Sản lượng trong các ngành công nghiệp thâm dụng năng lượng đã giảm 3,1% vào tháng 12 năm 2024 so với tháng 11 năm 2024. So sánh ba tháng cho thấy sản lượng trong các ngành công nghiệp thâm dụng năng lượng thấp hơn 2,6% trong giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2024 so với ba tháng trước đó.
Nguồn: Statistisches Bundesamt, Văn phòng Thống kê liên bang của Đức
Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức
Theo số liệu của Cơ quan Thống kê Liên bang Đức (Destatis), kim ngạch xuất nhập khẩu của Đức với Việt Nam trong tháng 11 đạt trên trên 1,8 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu của Đức sang Việt Nam trong tháng 11 đạt trên 417,35 triệu USD, nhập khẩu từ Việt Nam đạt gần 1,4 tỷ USD lần lượt tăng 50,8% và 7,5% so với tháng 11 năm 2023. Tính đến hết tháng 11 năm 2024, tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Đức với Việt Nam đạt trên 18,6 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Đức sang Việt Nam đạt trên 3,4 tỷ USD tăng 5%; kim ngạch nhập khẩu của Đức từ Việt Nam đạt khoảng 15,2 tỷ USD, tăng 9% so với 11 tháng năm 2023.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong tháng 1 năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Đức đạt trên 1,09 tỷ USD, tăng 7,41% so với năm 2024, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 863,97 triệu USD tăng 11,8% và nhập khẩu của Việt Nam từ Đức đạt 227,41 USD, giảm 6,52% so với năm 2024, xuất siêu đạt trên 636,57 triệu USD, tăng 20,2%.
* Về xuất khẩu
Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng:
+ Với nhóm nông thủy sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt trên 165,54 triệu USD, tăng 40,37% trong đó hầu hết tất cả các mặt hàng có ghi nhận xuất khẩu trong nhóm này đều đạt tăng trưởng dương, cụ thể cà phê đạt trên 121,16 triệu USD tăng 52,95%; thuỷ sản 16,57 triệu USD, tăng 16,8%; hạt tiêu đạt trên 9,36 triệu USD tăng 110,91%; rau quả đạt trên 6,36 triệu USD tăng 7,24%.
+ Với nhóm hàng chế biến chế tạo đạt trên 620,35 triệu USD tăng 5,31% so với năm 2024, kim ngạch tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 131,69 triệu USD, tăng 84%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt trên 124,51 triệu USD tăng 26,49%; sản phẩm dệt may đạt trên 66,28 triệu USD tăng 12,89%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt trên 21,07 triệu USD tăng 27,03%.
Các mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm:
+ Điện thoại các loại và linh kiện đạt trên 128,5 triệu USD, giảm 23,83%;
+ Giày dép các loại đạt trên 59,62 triệu USD, giảm 27,41%;
+ Mây tre, cói, thảm đạt trên 2,79 triệu USD, giảm 26,26%;
+ Sản phẩm từ cao su đạt trên 2,99 triệu USD, giảm 11,02%.
* Về nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 1 giảm đáng kể chủ yếu là do nhập khẩu các sản phẩm sau giảm:
+ Dược phẩm đạt trên 22,06 triệu USD, giảm 24,69%;
+ Hóa chất đạt trên 16,9 triệu USD, giảm 42,56%;
+ Linh kiện, phụ tùng ô tô đạt trên 2,31 triệu USD, giảm 67,36%;
+ Sản phẩm hóa chất đạt 13,6 triệu USD, giảm 14,64%;
+ Máy vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện đạt trên 11,61 triệu USD, giảm 9,27%.
Về tình hình đầu tư của Đức tại Việt Nam
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, trong 1 tháng năm 2025, Đức có 3 dự án đăng ký mới, số vốn đầu tư đăng ký cấp mới là 2,11 triệu USD, tổng vốn đăng ký là 2,16 giảm 55,6% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng thứ 26 trong tổng số 44 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư mới tại Việt Nam. Luỹ kế cho đến 31.1.2025, Đức có 485 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng số vốn là 2.805,48 triệu USD, đứng thứ 17 trong số 149 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.