Thương vụ Việt Nam tại Đức cập nhật Bản tin thị trường Đức số tháng 9 năm 2025 để bạn đọc tham khảo.
Tình hình ngoại thương của Đức tháng 7 năm 2025
Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 7 năm 2025
130,2 tỷ euro
-0,6% so với tháng trước
+1,4% so với cùng tháng năm trước
Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 7 năm 2025
115,4 tỷ euro
-0,1% so với tháng trước
+4,3% so với cùng tháng năm trước
Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 7 năm 2025 là +14,7 tỷ euro.
Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 74,8 tỷ euro vào tháng 7 năm 2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 60,3 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 6 năm 2025, xuất khẩu sang các nước EU tăng 2,5% và nhập khẩu từ các nước này tăng 1,1%.
Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 55,3 tỷ euro vào tháng 7.2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 55,1 tỷ euro. So với tháng 6 năm 2025, xuất khẩu sang các nước ngoài EU giảm 4,5%; nhập khẩu giảm 1,3%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ giảm 7,9% so với tháng 6 năm 2025, với giá trị xuất khẩu xuống còn 11,1 tỷ euro. Đây là lần giảm thứ tư liên tiếp và là mức thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2021 (11 tỷ euro). So với tháng 7 năm 2024, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Hoa Kỳ giảm 14,1%. So với tháng trước, xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 7,3% xuống 6,4 tỷ euro, trong khi xuất khẩu sang Vương quốc Anh giảm 3,1%, xuống còn 7 tỷ euro.
Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 7 năm 2025 đến từ Trung Quốc trị giá 14,3 tỷ euro, giảm 2,4% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ giảm 10% xuống còn 7,8 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh tăng 7,8% lên 3,2 tỷ euro trong cùng kỳ.
Giá nhập khẩu, tháng 7 năm 2025
-1,4% so với cùng tháng năm trước
-0,4% so với tháng trước
Tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu trong tháng 7/2025 một lần nữa là sự sụt giảm của giá năng lượng, ở mức -12,5% so với tháng 7/2024. So với tháng 6/2025, giá năng lượng giảm trung bình 0,7%.
Dầu thô (-22,7%), than đá (-17,9%) và các sản phẩm dầu khoáng (-12,9%) rẻ hơn so với tháng 7/2024. Khí đốt tự nhiên cũng chứng kiến mức giảm giá so với cùng kỳ năm ngoái (-3,2%). Ngược lại, giá điện đắt hơn đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái (+30,5%).
Giá hàng tiêu dùng nhập khẩu tăng 1,6% trong tháng 7 năm 2025 so với cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn 0,4% so với tháng trước. Hàng tiêu dùng nhập khẩu đắt hơn 2,3% so với tháng 7 năm 2024 (-0,5% so với tháng 6 năm 2025), trong khi hàng hóa lâu bền nhập khẩu rẻ hơn 1,2% so với cùng kỳ năm trước (-0,4% so với tháng 6 năm 2025).
Giá cả tăng so với tháng 7 năm 2024 chủ yếu là nước cam (+41,6%), cà phê (rang hoặc không chứa caffeine; +34,5%), thịt bò (+30,9%), hạt phỉ đã tách vỏ (+29,4%), thịt gia cầm (+27,5%), bánh kẹo (trừ bánh nướng để lâu; +26,1%), nước ép táo (+24,6%) và sữa và các sản phẩm từ sữa (+10,6%). Đối với bánh kẹo, mức tăng chủ yếu là do giá sô cô la và các loại bánh kẹo khác tăng (+26,0%). Ngược lại, đường (-28,3%) và dầu ô liu (-24,9%) rẻ hơn so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá nông sản nhập khẩu trong tháng 7 năm 2025 cao hơn 1,9% so với cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn 2,3% so với tháng 6 năm 2025. Riêng cà phê xanh đắt hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước (+29,2%), nhưng giá cà phê xanh đã giảm 3,7% so với tháng trước.
Giá xuất khẩu, tháng 7 năm 2025
+0,6% so với cùng tháng năm trước
-0,2% so với tháng trước
Hàng tiêu dùng xuất khẩu đắt hơn 1,7% so với tháng 7 năm 2024, nhưng giá vẫn không đổi so với tháng 6 năm 2025. Giá hàng tiêu dùng cao hơn 1,8% so với năm trước, và hàng tiêu dùng lâu bền đắt hơn 1,6% so với tháng 7 năm 2024. Giá thực phẩm cũng đắt hơn trung bình so với cùng kỳ năm ngoái (+6,3%). Cà phê (đã khử caffein hoặc rang xay) nói riêng được xuất khẩu với giá cao hơn 51,7% so với tháng 7 năm 2024 (+2,9% so với tháng 6 năm 2025). Ngược lại, xuất khẩu đường rẻ hơn đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái (-29,5%).
Giá hàng hóa trung gian xuất khẩu vẫn giữ nguyên so với cùng kỳ năm trước và thấp hơn 0,3% so với tháng 6 năm 2025.
Xuất khẩu năng lượng cũng đắt hơn so với cùng kỳ năm ngoái (+0,3%). So với tháng 6 năm 2025, giá tại đây đã tăng 3,2%. Trong khi giá các sản phẩm dầu mỏ rẻ hơn 11,3% so với cùng kỳ năm trước (+1,5% so với tháng 6 năm 2025), giá khí đốt tự nhiên lại cao hơn 10,2% so với cùng kỳ năm ngoái (-1,6% so với tháng 6 năm 2025).
Xuất khẩu nông sản rẻ hơn 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Giá cũng giảm so với tháng 6 năm 2025 (-0,6%).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 8 năm 2025
+2,2% so với tháng 8/2024
+0,1% so với tháng 7/2025
Tỷ lệ lạm phát tại Đức – được đo bằng mức thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước là +2,2% vào tháng 8 năm 2025. "Lạm phát đã tăng nhẹ lần đầu tiên trong năm nay", Ruth Brand, Chủ tịch Cục Thống kê Liên bang (Destatis), cho biết. "Giá lương thực tăng mạnh trong tháng 8. Ngoài ra, việc giá năng lượng giảm cũng làm giảm lạm phát ít hơn so với những tháng trước."
Giá các sản phẩm năng lượng giảm 2,4% vào tháng 8 năm 2025 so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ giảm giá năng lượng do đó đã chậm lại trong tháng thứ tư liên tiếp và thấp hơn đáng kể so với tháng 7 năm 2025 (-3,4%). So với cùng kỳ năm trước, cả giá nhiên liệu (-2,5%) và giá năng lượng hộ gia đình (-2,3%) đều giảm vào tháng 8 năm 2025. Đặc biệt, người tiêu dùng tiếp tục được hưởng lợi từ việc giá dầu sưởi ấm nhẹ (-5,2%) và giá củi, viên nén gỗ và các nhiên liệu khác (-3,5%) đều giảm. Giá điện (-1,7%) và giá sưởi ấm khu vực (-1,6%) cũng giảm so với cùng kỳ năm trước. Mặt khác, giá khí đốt tự nhiên đắt hơn một chút so với cùng kỳ năm trước (+0,7%).
Giá thực phẩm cao hơn 2,5% vào tháng 8 năm 2025 so với cùng kỳ năm trước, một lần nữa vượt quá lạm phát chung. Vào tháng 7 năm 2025, mức tăng giá thực phẩm thấp hơn một chút ở mức +2,2%. Từ tháng 8 năm 2024 đến tháng 8 năm 2025, giá tăng chủ yếu đối với trái cây (+7,1%) và đường, mứt, mật ong và các loại bánh kẹo khác (+6,9%). Các sản phẩm từ sữa và trứng (+3,2%), cũng như thịt và các sản phẩm từ thịt (+2,9%), cũng chứng kiến mức tăng giá đáng kể. Tuy nhiên, chất béo và dầu ăn (-1,3%) và rau (-1,1%) rẻ hơn so với cùng kỳ năm trước. Trong một số trường hợp riêng lẻ, mức tăng giá đáng chú ý (ví dụ: sô cô la: +21,3%) đã được bù đắp bằng mức giảm giá đáng chú ý (ví dụ: dầu ô liu: -22,6%).
Sản xuất trong công nghiệp
Tháng 7 năm 2025 (theo thực tế, tạm thời):
+1,3% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)
+1,5% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)
Sự tăng trưởng tích cực trong sản xuất tháng 7 năm 2025 chủ yếu là do sự gia tăng của ngành cơ khí (+9,5% so với tháng trước, điều chỉnh theo lịch và theo mùa). Sự gia tăng sản lượng của ngành ô tô (+2,3%) và ngành dược phẩm (+8,4%) cũng có tác động tích cực đến kết quả chung. Ngược lại, sự sụt giảm của sản lượng năng lượng (-4,5%) lại có tác động tiêu cực.
Sản xuất công nghiệp (sản xuất không bao gồm năng lượng và xây dựng) đã tăng 2,2% trong tháng 7 năm 2025 so với tháng 6 năm 2025, điều chỉnh theo mùa và theo lịch. Trong ngành công nghiệp, mức tăng được ghi nhận ở cả ba nhóm chính: Sản xuất hàng hóa vốn tăng 3,0%, sản xuất hàng tiêu dùng tăng 2,1% và sản xuất hàng hóa trung gian tăng 0,8%. Sản xuất xây dựng tăng 0,3%.
Nguồn: Statistisches Bundesamt, Cục Thống kê liên bang của Đức
Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức
Theo Cục Thống kê Liên bang Đức (Destatis), trong tháng 6 kim ngạch thương mại Việt Nam – Đức đạt gần 2 tỷ USD, tăng 21% so với tháng 6 năm 2024. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Việt Nam đạt trên 279,63 triệu USD; nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam đạt khoảng 1,72 tỷ USD, lần lượt tăng 0,9% và 25% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 6 năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Đức đạt trên 11,7 tỷ USD tăng 22,1% so với 6 tháng đầu năm 2024, trong đó xuất khẩu từ Đức sang Việt Nam đạt trên 1,84 tỷ USD, nhập khẩu từ Việt Nam vào Đức đạt trên 9,87 tỷ USD, lần lượt tăng 6% và 26% so với cùng kỳ năm 2024.
Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 8 năm 2025, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Đức đạt trên 8,82 tỷ USD, tăng 13,8% so với 8 tháng đầu năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 6,2 tỷ USD và nhập khẩu đạt trên 2,61 tỷ USD, lần lượt tăng 17,7% và 5,4% so với cùng kỳ năm 2024.
* Về xuất khẩu
Tăng trưởng xuất khẩu đạt được chủ yếu nhờ nhóm hàng nông thuỷ sản và nhóm hàng điện tử, cụ thể:
- Với nhóm nông thủy sản, so với 8 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 901,47 triệu USD, tăng 89,7%; thuỷ sản trên 141,36 triệu USD, tăng 8,1%; hạt điều đạt trên 131,59 triệu USD, tăng 38,6%; hạt tiêu đạt 91,35 triệu USD tăng 43,4%; rau quả đạt trên 55 triệu USD tăng 31,9%.
- Với nhóm hàng chế biến chế tạo, tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 754 triệu USD, tăng 18,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt trên 914,38 triệu USD, tăng 8,7%; dệt may đạt trên 599,83 triệu USD, tăng 17,5%, giày dép đạt trên 478,54 triệu USD, tăng 0,1%.
* Về nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Đức tăng mạnh ở mặt hàng sữa và sản phẩm sữa đạt trên 61,26 triệu USD tăng 102,1%; dược phẩm đạt trên 278,69 triệu USD tăng 14,7%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt trên 966,23 triệu tăng 11,2%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 139,62 triệu USD, tăng 37,3%; ô tô nguyên chiếc đạt trên 21,77 triệu USD, tăng 90,9%; linh kiện phụ tùng ô tô đạt 49,83 triệu USD, tăng 48,3%...
Các mặt hàng ghi nhận mức giảm là hóa chất đạt trên 194,26 triệu USD, giảm 34,8%; sản phẩm hóa chất đạt trên 174,99 triệu USD, giảm 7,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt gần 33 triệu USD, giảm 7,7%.