| Thông tin thị trường quốc tế cập nhật 24/7 từ Bộ Công Thương
Tin tức

Bản tin thị trường Đức số tháng 10 năm 2025

Thương vụ Việt Nam tại Đức cập nhật Bản tin thị trường Đức số tháng 10 năm 2025 để bạn đọc tham khảo.

Tình hình ngoại thương của Đức tháng 8 năm 2025

Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 8 năm 2025

129,7 tỷ euro

-0,5% so với tháng trước

-0,7% so với cùng tháng năm trước

Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 8 năm 2025

112,5 tỷ euro

-1,3% so với tháng trước

+3,5% so với cùng tháng năm trước

Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 8 năm 2025 là +17,2 tỷ euro.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 72,5 tỷ euro vào tháng 8 năm 2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 58,8 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 7 năm 2025, xuất khẩu sang các nước EU giảm 2,5% và nhập khẩu từ các nước này giảm 1,9%.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 57,1 tỷ euro vào tháng 8.2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 53,7 tỷ euro. So với tháng 7 năm 2025, xuất khẩu sang các nước ngoài EU tăng 2,2%; nhập khẩu giảm 0,7%.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ giảm 2,5% so với tháng 7 năm 2025, với giá trị xuất khẩu xuống còn 10,9 tỷ euro. Đây là lần giảm thứ năm liên tiếp và là mức thấp nhất kể từ tháng 11 năm 2021 (10,3 tỷ euro). So với tháng 8 năm 2024, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Hoa Kỳ giảm 20,1%. So với tháng 7.2025, xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 5,4% lên 6,8 tỷ euro, trong khi xuất khẩu sang Vương quốc Anh giảm 6,5%, xuống còn 6,5 tỷ euro.

Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 8 năm 2025 đến từ Trung Quốc trị giá 13,5 tỷ euro, giảm 4,5% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng 3,4% lên 8 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh giảm 4,6% xuống 3 tỷ euro trong cùng kỳ.

Giá nhập khẩu, tháng 8 năm 2025

-1,5% so với cùng tháng năm trước

-0,5% so với tháng trước

Một lần nữa, mức giảm giá năng lượng ở mức -15,6% so với tháng 8 năm 2024, đã tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu trong tháng 8 năm 2025. So với tháng 7 năm 2025, giá năng lượng đã giảm trung bình 5,0%. Tất cả các nguồn năng lượng đều rẻ hơn so với tháng 8 năm 2024: giá than đá giảm 20,9%, giá dầu thô giảm 20,5%, giá khí đốt tự nhiên giảm 13,2%, giá các sản phẩm dầu khoáng giảm 11,6% và giá điện giảm 5,3%.

Giá nhập khẩu hàng hóa trung gian giảm 1,0% so với cùng kỳ năm trước (-0,1% vào tháng 7 năm 2025), trong khi giá nhập khẩu hàng hóa vốn giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước (+0,1% vào tháng 7 năm 2025).

Giá hàng tiêu dùng nhập khẩu tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá không đổi so với tháng trước. Giá thực phẩm nói riêng đã tăng đáng kể (+9,1%) so với tháng 8 năm 2024 và tăng 0,2% so với tháng 7 năm 2025. So với tháng 8 năm 2024, giá cả tăng được ghi nhận, đặc biệt là đối với nước cam (+46,7%), cà phê (rang hoặc không chứa caffein; +39,8%), hạt phỉ đã tách vỏ (+33,7%), thịt bò (+30,8%), thịt gia cầm (+29,8%), ca cao, sô cô la và bánh kẹo đường (+22,5%) và nước ép táo (+22,1%). Ngược lại, đường (-30,4%) và dầu ô liu (-21,4%) rẻ hơn so với cùng kỳ năm trước.

Giá nông sản nhập khẩu tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,4% so với tháng 7/2025. Đặc biệt, giá cà phê nhân xanh tăng mạnh 40,3% so với cùng kỳ năm trước và tăng 14,2% so với tháng trước.

Giá xuất khẩu, tháng 8 năm 2025

+0,5% so với cùng tháng năm trước

-0,1% so với tháng trước

Hàng tiêu dùng xuất khẩu đắt hơn 1,8% so với tháng 8 năm 2024 (+0,1% so với tháng 7 năm 2025). Giá hàng tiêu dùng không bền cao hơn 1,8% và hàng tiêu dùng bền cao hơn 1,6% so với tháng 8 năm 2024. Cũng như hàng nhập khẩu, giá thực phẩm trung bình đắt hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước (+6,3%). Cụ thể, giá cà phê (đã khử caffein hoặc rang xay) xuất khẩu cao hơn 50,1% so với tháng 8 năm 2024 (+2,6% so với tháng 7 năm 2025). Ngược lại, giá đường xuất khẩu lại rẻ hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước (-29,1%).

Giá hàng hóa vốn xuất khẩu tăng 0,4% so với tháng 8 năm 2024 và không đổi so với tháng trước. Giá hàng hóa trung gian xuất khẩu tăng nhẹ (0,1%) so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,1% so với tháng 7 năm 2025.

Giá xuất khẩu nông sản tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Giá đã giảm (-0,6%) so với tháng 7 năm 2025.

Giá năng lượng xuất khẩu thấp hơn so với cùng kỳ năm trước (-4,7%). và đã giảm 4,9% so với tháng trước. Trong khi giá các sản phẩm dầu khoáng rẻ hơn 8,9% so với cùng kỳ năm trước (-2,7% so với tháng 7 năm 2025), giá khí đốt tự nhiên lại tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước (-5,7% so với tháng 7 năm 2025).

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 9 năm 2025

+2,4% so với tháng 9/2024

+0,2% so với tháng 8/2025

Tỷ lệ lạm phát ở Đức dự kiến ​​sẽ đạt +2,4% vào tháng 9 năm 2025. Tỷ lệ lạm phát được đo bằng mức thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước. Dựa trên kết quả hiện có, Cục Thống kê Liên bang (Destatis) cũng báo cáo rằng giá tiêu dùng đã tăng 0,2% vào tháng 8 năm 2025. Tỷ lệ lạm phát không bao gồm thực phẩm và năng lượng, thường được gọi là lạm phát cơ bản, dự kiến ​​sẽ đạt +2,8% vào tháng 9 năm 2025.

Giá sản xuất công nghiệp, tháng 8 năm 2025

-2,2% so với tháng 8/2024

-0,5% so với tháng 7/2025

Vào tháng 8 năm 2025, giá năng lượng thấp hơn là nguyên nhân chính khiến giá sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước. Hàng hóa trung gian cũng rẻ hơn so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, hàng hóa vốn, hàng tiêu dùng không bền và hàng tiêu dùng bền có giá cao hơn so với cùng kỳ năm trước.

Giá năng lượng đã giảm 8,5% so với tháng 8 năm 2024 và giảm 1,0% so với tháng trước.

Giá hàng hóa vốn tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước (+0,1% so với tháng 7 năm 2025) Trong đó, máy móc đắt hơn 1,8% (+0,1% so với tháng 7 năm 2025); Giá xe cơ giới, rơ moóc và sơ mi rơ moóc tăng 0,9% (+0,1% so với tháng 7 năm 2025).

So với tháng 8 năm 2025, hàng tiêu dùng không bền có giá cao hơn 3,3% (-0,1% so với tháng 7 năm 2025). Thực phẩm đắt hơn 4,1% (-0,1% so với tháng 7 năm 2025). Giá cà phê tăng mạnh +33,1% (-0,7% vào tháng 7 năm 2025), và giá thịt bò cũng tăng đáng kể +36,6% (-0,3% vào tháng 7 năm 2025). Giá bơ đắt hơn 5,3% (-2,0% so với tháng 7 năm 2025). Ngược lại, giá đường giảm -36,8% (+1,0% so với tháng 7 năm 2025). Giá thịt lợn giảm 1,9% (-1,0% vào tháng 7 năm 2025).

Sản xuất trong công nghiệp

Tháng 8 năm 2025 (theo thực tế, tạm thời):

-4,3% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)

-3,9% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)

Diễn biến sản xuất tiêu cực trong tháng 8 năm 2025 chủ yếu là do sự sụt giảm mạnh trong ngành công nghiệp ô tô, ngành công nghiệp lớn nhất của Đức (-18,5% so với tháng trước).

Ngành sản xuất máy móc và thiết bị (-6,2%) tiếp tục có tác động tiêu cực đến kết quả chung, sau mức tăng 9,2% được ghi nhận vào tháng 7 năm 2025. Sự sụt giảm sản lượng được chứng kiến ​​trong ngành dược phẩm (-10,3%) và trong ngành sản xuất máy tính, sản phẩm điện tử và quang học (-6,1%) cũng có tác động tiêu cực.

Sản lượng công nghiệp (trừ năng lượng và xây dựng) giảm 5,6% so với tháng 7 năm 2025. Cả ba nhóm chính đều ghi nhận mức giảm, với sản lượng hàng hóa tư liệu sản xuất giảm 9,6%, sản lượng hàng tiêu dùng giảm 4,7% và sản lượng hàng hóa trung gian giảm 0,2%.

Nguồn: Statistisches Bundesamt, Cục Thống kê liên bang của Đức 

Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức

Theo Cục Thống kê Liên bang Đức (Destatis), trong tháng 7 kim ngạch thương mại Việt Nam – Đức đạt gần 2,28 tỷ USD, tăng 33% so với tháng 7 năm 2024. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Việt Nam đạt trên 409,89 triệu USD; nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam đạt khoảng 1,87 tỷ USD, lần lượt tăng 40% và 30,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 7 năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Đức đạt trên 13,99 tỷ USD tăng 23,7% so với 7 tháng đầu năm 2024, trong đó xuất khẩu từ Đức sang Việt Nam đạt trên 2,25 tỷ USD, nhập khẩu từ Việt Nam vào Đức đạt trên 11,74 tỷ USD, lần lượt tăng 11% và 26,5% so với cùng kỳ năm 2024.

Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 9 năm 2025, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Đức đạt xấp xỉ 9,95 tỷ USD, tăng 15,2% so với 9 tháng đầu năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 6,96 tỷ USD và nhập khẩu đạt trên 2,98 tỷ USD, lần lượt tăng 19,4% và 6,6% so với cùng kỳ năm 2024.

* Về xuất khẩu

Tăng trưởng xuất khẩu đạt được chủ yếu nhờ nhóm hàng nông thuỷ sản và nhóm hàng điện tử, cụ thể:

- Với nhóm nông thủy sản, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,45 tỷ USD tăng 61,7% so với 9 tháng năm 2024. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 940,33 triệu USD, tăng 94,7%; thuỷ sản trên 162,13 triệu USD, tăng 10,9%; hạt điều đạt 153,47 triệu USD, tăng 43,9%; hạt tiêu đạt 99,49 triệu USD tăng 43,4%; rau quả đạt trên 61,17 triệu USD tăng 39,8%.

- Với nhóm hàng chế biến, chế tạo kim ngạch đạt trên 4,86 tỷ UDS, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt khoảng 899 triệu USD, tăng 20,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt trên 1,07 tỷ USD, tăng 13,6%; dệt may đạt trên 662,73 triệu USD, tăng 17,7%, giày dép đạt trên 530,90 triệu USD, tăng 0,9%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 64,77 triệu USD, tăng 8,1%.

* Về nhập khẩu

Các mặt hàng ghi nhận mức tăng là máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt trên 1,11 tỷ USD, tăng 14,3%; dược phẩm đạt 313,23 triệu USD, tăng 9,8%; máy móc vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện đạt 162,24 triệu USD, tăng 38,2%.

Các mặt hàng ghi nhận mức giảm là nhập khẩu hóa chất đạt trên 210,84 triệu USD, giảm 35,9%; sản phẩm hóa chất đạt trên 200,47 triệu USD, giảm 5,7%; phân bón các loại đạt 10,69 triệu USD, giảm 2,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 36,17 triệu USD, giảm 4,7%...

Thương vụ Việt Nam tại Đức

Nội dung liên quan