Bước sang năm 2024, dự báo nền kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, song ngành dệt may Việt Nam vẫn quyết tâm đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 44 tỷ USD, tăng 9,2% so với 2023.
Dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu 44 tỷ USD năm 2024.
Tại hội nghị “Tổng kết Hiệp hội Dệt may Việt Nam 2023”, ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), cho rằng đến thời điểm này, ngành dệt may cơ bản có sự thành công nhất định, với kim ngạch xuất khẩu đạt 40,3 tỷ USD. Với bài học kinh nghiệm thu hái được trong năm 2023, năm 2024 ngành dệt may Việt Nam phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 44 tỷ USD.
Thách thức còn rất lớn
Năm 2023, doanh nghiệp đã phải bươn trải với áp lực về giá, chi phí, thời gian giao hàng ngắn và đảm bảo việc làm cho người lao động. Đồng thời, chịu tác động từ cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, trong khi đó, cơ chế chính sách không theo kịp xu thế...
Trong bối cảnh khó khăn này, ngành đã thực hiện 3 giải pháp căn cơ. Đó là, liên kết chuỗi; đa dạng hoá thị trường, khách hàng, mặt hàng; thực hiện phát triển bền vững, xanh hoá, chuyển đổi số, quản trị số.
Vì thế, đến giờ này ngành dệt may cơ bản có sự thành công nhất định, đạt kim ngạch xuất khẩu 40,3 tỷ USD năm 2023. Năm 2024 ngành dệt may Việt Nam phấn đấu đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 44 tỷ USD, tăng 9,2% so với 2023.
Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong thời gian tới ngành dệt may có nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức buộc phải vượt qua.
Cơ hội hiện nay đó là nhu cầu thị trường với sản phẩm dệt may dự kiến sẽ cải thiện hơn năm 2023, do tình hình kinh tế tại các thị trường nhập khẩu dệt may lớn của Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi.
Cùng với đó, mặt bằng lãi suất cho vay tại Việt Nam hiện đã giảm đáng kể, giúp giảm sức ép chi phí lãi vay lên các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ hiện nay có thể được kéo dài trong năm 2024. Đặc biệt, Chiến lược phát triển ngành dệt may, da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2035 đã được phê duyệt.
Nhưng thách thức với dệt may trong năm 2024 vẫn còn rất lớn. Ông Cẩm cho rằng ngành dệt may sẽ đối diện với hàng loạt những khó khăn từ áp dụng cơ chế EPR (trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất) và CBAM (cơ chế điều chỉnh biên giới carbon) cũng như Chiến lược “thời trang bền vững” thay cho “thời trang nhanh”, Chỉ thị tra soát chuỗi cung ứng của OECD của EU; Luật thẩm định chuỗi cung ứng của Đức...... Đạo luật chống lao động cưỡng bức của Mỹ (UFLPA) cho ngành sợi.
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế thế giới trong 2 năm tới còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó tâm điểm là xung đột ở khu vực Trung Đông cùng những chính sách kiềm chế lạm phát của một số nước.
Theo TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV & Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia, đơn hàng xuất khẩu còn giảm, dù đang bớt đi; chuỗi cung ứng còn rủi ro, chi phí đầu vào còn cao. Bên cạnh đó rủi ro nghĩa vụ trả nợ còn cao, rủi ro lãi suất, tỷ giá giảm. Xu hướng chuyển đổi số, kinh doanh tuần hoàn diễn ra nhanh… là những vấn đề đặt ra với dệt may thời gian tới.
Do đó, để đáp ứng các yêu cầu này, ông Trương Văn Cẩm nêu định hướng, từ nay đến 2030, ngành dệt may chuyển dần từ trọng tâm phát triển nhanh sang trọng tâm phát triển bền vững, kinh doanh tuần hoàn.
Trong đó, đẩy mạnh mô hình phát triển bền vững (PPP- People, Profit, Planet). Cụ thể, đáp ứng nhu cầu lao động, cải thiện điều kiện làm việc, thu nhập, quan hệ lao động hài hoà; quản trị rủi ro, đa dạng nguồn nguyên phụ liệu và thị trường xuất khẩu, cắt giảm chi phí, tăng trưởng và có lãi; giảm rác thải, xử lý và tái sử dụng nước, năng lượng tái tạo, tái chế, tái sử dụng.
Từ 2031 – 2035, phát triển hiệu quả, bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Hoàn thiện chuỗi giá trị trong nước và tham gia ở vị trí có giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Xuất khẩu và tiêu thụ trong nước bằng các thương hiệu riêng mang tầm khu vực và thế giới.
(Dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu 44 tỷ USD năm 2024)
Đề xuất tiếp tục các chính sách hỗ trợ
Bên cạnh sự nỗ lực của Chính phủ, ông Cẩm đề xuất, Nhà nước sớm triển khai gói 120.000 tỷ đồng lãi suất ưu đãi cho xây nhà ở xã hội, nhà ở công nhân. Ban hành các tiêu chí phù hợp để người có thu nhập thấp được thụ hưởng chính sách.
Tiếp tục hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động, nhất là cho các ngành nghề khó đào tạo như kỹ sư dệt, nhuộm, thiết kế, cho đổi mới công nghệ, kỹ năng xanh, kỹ năng chuyển đổi số.
Đại diện Vitas đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương sớm vào cuộc triển khai Quyết định 1643/QĐ-TTg về “Chiến lược phát triển ngành Dệt May và Da Giày đến 2030, tầm nhìn 2035”, nhất là Chương trình phát triển bền vững để đáp ứng yêu cầu thị trường thu hút khách hàng.
Nhà nước tiếp tục gia hạn các gói hỗ trợ doanh nghiệp chưa sử dụng hết theo Nghị quyết 43/2022/NQ-QH15 của Quốc hội cho năm 2024.
“Đối với gói hỗ trợ 40 ngàn tỷ đồng cho giảm lãi suất 2% đang triển khai rất chậm tại các ngân hàng thương mại đề nghị Nhà nước nghiên cứu chuyển sang hỗ trợ các dự án chuyển đổi xanh để đáp ứng các quy định mới của thị trường”, ông Cẩm đề xuất.
Đồng thời, đề nghị bỏ thuế VAT và thuế nhập khẩu tại chỗ cho hàng hóa sản xuất xuất khẩu quy định tại Nghị định 18/2021/NĐCP; cho phép thương nhân nước ngoài có hiện diện hoặc không có hiện diện tại Việt Nam được áp dụng quy định xuất nhập khẩu tại chỗ.
Giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội, sửa đổi quy định hưởng lương hưu để giảm số lao động rút bảo hiểm xã hội 1 lần, sửa đổi quy định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp để tránh lao động nhảy việc, giảm tỷ lệ doanh nghiệp đóng kinh phí công đoàn về tối đa 1% và giảm tỷ lệ nộp lên công đoàn cấp trên tối đa 15%.
Ở góc độ quản lý, ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, Chính phủ đã cam kết với COP26 tới 2050 sẽ giảm phát thải ròng bằng bằng 0 và sản xuất xanh bền vững. Ngành dệt may cũng phải thực hiện điều này góp phần vào thực hiện cam kết của Chính phủ.
Theo đó, ngành phải chủ động nguồn nguyên liệu, tăng dần tỷ trọng sợi tái chế trong sản phẩm vải, cũng như sợi hữu cơ đối với những sản phẩm mới. Đầu tư cải tạo nhà máy điện mặt trời mái nhà, sử dụng nguyên liệu đốt trong lò hơi dần chuyền từ than sang điện. Mặt khác, đầu tư công nghệ khâu kiểm soát nguyên liệu đến khâu thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm và tổ chức sản xuất.