| Thông tin thị trường quốc tế cập nhật 24/7 từ Bộ Công Thương
Tin tức

Bản tin thị trường Đức số tháng 5 năm 2025

Thương vụ Việt Nam tại Đức cập nhật Bản tin thị trường Đức số tháng 5 năm 2025 để bạn đọc tham khảo.

Tình hình ngoại thương của Đức tháng 3 năm 2025

Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 3 năm 2025

133,2 tỷ euro

+1,1% so với tháng trước

+2,3% so với cùng tháng năm trước

Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 3 năm 2025

112,1 tỷ euro

-1,4% so với tháng trước

+2,3% so với cùng tháng năm trước

Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 3 năm 2025 là +21,1 tỷ euro.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 72,3 tỷ euro vào tháng 3 năm 2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 56,9 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 2 năm 2025, xuất khẩu sang các nước EU tăng 3,1% và nhập khẩu từ các nước này giảm 3,5%.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 60,9 tỷ euro vào tháng 3.2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 55,2 tỷ euro. So với tháng 2 năm 2025, xuất khẩu sang các nước ngoài EU giảm 1,1%; nhập khẩu tăng 0,8%.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng 2,4% so với tháng 2 năm 2025, với giá trị xuất khẩu 14,6 tỷ euro. Xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 10,2% đạt 7,5 tỷ euro, trong khi xuất khẩu sang Vương quốc Anh giảm 2,8% xuống còn 6,4 tỷ euro.

Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 3 năm 2025 đến từ Trung Quốc trị giá 14,7 tỷ euro, tăng 9,6% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng 7,9% lên 8,1 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh giảm 5,8% xuống còn 3,2 tỷ euro trong cùng kỳ.

Giá nhập khẩu, tháng 3 năm 2025

+2,1% so với cùng tháng năm trước

-1,0% so với tháng trước

Giá hàng tiêu dùng tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước có tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu trong tháng 3 năm 2025. Giá hàng tiêu dùng không lâu bền nhập khẩu cao hơn 4,2% so với tháng 3 năm 2024 và giá hàng tiêu dùng lâu bền tăng 1,0%.

Giá thực phẩm nói riêng cao hơn đáng kể (+9,8%) so với tháng 3 năm 2024 (+0,3% vào tháng 2 năm 2025), giá nước cam (+52,6%), ca cao, sô cô la và bánh kẹo đường (+39,8%), nước táo (+37,2%), thịt gia cầm (+25,9%), thịt bò (+24,9%), sữa và các sản phẩm từ sữa (+12,9%), giá bơ ca cao, chất béo và dầu (+62,7%) và sô cô la và các loại bánh kẹo khác (+31,5%).

Giá nông sản nhập khẩu cao hơn 12,3% so với cùng kỳ năm trước (+1,6% so với tháng 2/2025). Đặc biệt, giá cà phê xanh tăng mạnh +69,8% so với tháng 3/2024 và tăng 3,6% so với tháng trước. Ca cao thô đắt hơn 61,0% so với tháng 3/2024 (+0,4% so với tháng 2/2025). Giá gia cầm và trứng tăng 12,2%. Ngược lại, giá hành tây (-27,2%) và lợn sống (-25,4%) lại giảm so với năm trước. Tuy nhiên, so với tháng trước, giá hành tây (+13,2%) và lợn sống (+9,6%) lại cao hơn đáng kể.

Giá năng lượng nhập khẩu cũng đắt hơn so với tháng 3/2024 (+2,4%). Tuy nhiên, so với tháng 2/2025, giá ở đây thấp hơn nhiều (-6,6%). Giá nhập khẩu điện tăng 46,5% so với tháng 3 năm 2024 (-26,7% so với tháng 2 năm 2025) và giá khí đốt tự nhiên tăng 34,6% (-5,6% so với tháng 2 năm 2025). Ngược lại, than đá nhập khẩu (-20,7%), dầu thô (-12,8%) và các sản phẩm dầu khoáng (-12,5%) rẻ hơn so với tháng 3 năm 2024.

Giá xuất khẩu, tháng 3 năm 2025

+2,0% so với cùng tháng năm trước

-0,4% so với tháng trước

Giá hàng hóa trung gian xuất khẩu tăng 1,6% và giá hàng hóa vốn tăng 1,3% so với tháng 3 năm 2024. Tuy nhiên, so với tháng trước, giá hàng hóa trung gian giảm trung bình 0,1% và giá hàng hóa vốn giảm 0,3%.

Hàng tiêu dùng xuất khẩu đắt hơn 2,5% so với tháng 3 năm 2024 (+0,1% vào tháng 2 năm 2025). Hàng tiêu dùng lâu bền có giá cao hơn 1,5% và giá hàng tiêu dùng không bền tăng 2,8% vào tháng 3 năm 2024. Đặc biệt, giá cà phê xuất khẩu (đã khử caffein hoặc rang) tăng 53,1% so với tháng 3 năm 2024. Giá bơ và bơ sữa tăng 27,0% và ca cao, sô cô la và bánh kẹo đường có giá cao hơn 24,2%, bao gồm, đặc biệt là giá cao hơn đáng kể đối với bột ca cao, bơ ca cao, chất béo và dầu ca cao và bột ca cao (+29,1%).

Giá các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu tăng 6,4% vào tháng 3 năm 2024 (-0,7% vào tháng 2 năm 2025).

Xuất khẩu năng lượng đắt hơn 13,2% so với cùng kỳ năm trước, nhưng giảm 7,5% so với tháng 2 năm 2025. Ví dụ, giá khí đốt tự nhiên cao hơn 49,3% so với cùng kỳ năm trước (-3,0% vào tháng 2 năm 2025). Ngược lại, các sản phẩm dầu khoáng rẻ hơn 12,3% so với cùng kỳ năm trước (-6,0% vào tháng 2 năm 2025).

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 4 năm 2025

+2,1% so với tháng 4/2024

+0,4% so với tháng 3/2025

Tỷ lệ lạm phát ở Đức dự kiến ​​là +2,1% vào tháng 4 năm 2025. Tỷ lệ lạm phát được đo bằng sự thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng tháng năm trước. Tỷ lệ lạm phát không bao gồm thực phẩm và năng lượng, thường được gọi là lạm phát cốt lõi, dự kiến ​​sẽ ở mức +2,9% vào tháng 4 năm 2025.

Sản xuất trong công nghiệp

Tháng 3 năm 2025 (theo thực tế, tạm thời):

+1,3% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)

-0,2% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)

Nhiều ngành kinh tế đã đóng góp vào sự phát triển tích cực của ngành công nghiệp vào tháng 3 năm 2025. Đặc biệt, sản lượng tăng trong ngành ô tô (+8,1%), ngành dược phẩm (+19,6%) và sản xuất máy móc và thiết bị (+4,4%) đã tác động đến hiệu suất chung.

Nguồn: Statistisches Bundesamt, Văn phòng Thống kê liên bang của Đức 

Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức

Theo Cơ quan Thống kê Liên bang Đức (Destatis), kim ngạch xuất nhập khẩu của Đức với Việt Nam trong tháng 2 năm 2025 đạt trên 1,76 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Việt Nam đạt trên 212,68 triệu USD, giảm 5,8%; nhập khẩu hàng hóa của Đức từ Việt Nam đạt khoảng 1,45 tỷ USD, tăng 7,6% so với tháng 2 năm 2024.

Tính đến hết tháng 2 năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Đức đạt trên 3,59 tỷ USD tăng 9,4% so với 2 tháng đầu năm 2024, trong đó xuất khẩu từ Đức sang Việt Nam đạt trên 547,21 triệu USD, nhập khẩu từ Việt Nam vào Đức đạt trên 3.04 tỷ USD, lần lượt giảm 7,5% và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2024.

Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 4 năm 2025, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Đức đạt 4,495 tỷ USD, tăng 23,3% so với 4 tháng đầu năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 3,289 tỷ USD và nhập khẩu đạt trên 1,2 tỷ USD, lần lượt tăng 27,84% và 12,41% so với cùng kỳ năm 2024.

* Về xuất khẩu

- Với nhóm nông thủy sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt trên 823,73 triệu USD, tăng 74,03% trong đó hầu hết tất cả các mặt hàng có ghi nhận xuất khẩu trong nhóm này đều đạt tăng trưởng dương, cụ thể cà phê đạt trên 628,12 triệu USD tăng 97,62%; thuỷ sản trên 64,45 triệu USD, tăng 11%; hạt điều đạt trên 47 triệu USD, tăng 22,68%; hạt tiêu đạt trên 49,33 triệu USD tăng 88,05%; rau quả đạt 25,43 triệu USD tăng 28,11%.

- Với nhóm hàng chế biến chế tạo, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,17 tỷ USD, tăng 16,23%, trong đó tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 403,28 triệu USD, tăng 56,45%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt trên 470,67 triệu USD, tăng 17,37%; đặc biệt ghi nhận sự tăng trưởng trở lại của các mặt hàng xuất khẩu truyền thống là dệt may (trên 263,27 triệu USD, tăng 30,76%), giày dép (259,13 triệu USD, tăng 7,37%).

* Về nhập khẩu

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Đức tăng ở nhóm mặt hàng chế biến, chế tạo đạt trên 1,05 tỷ USD, tăng 15,10%. Trong đó, các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc thiết bị phụ tùng đạt 436,43 triệu USD, tăng 14,01%; dược phẩm đạt 145,49 triệu USD, tăng 39,81%; hóa chất đạt 110,65 triệu, giảm 6,9%; máy vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện đạt trên 56,25 triệu USD, tăng 16,9%; sản phẩm hóa chất đạt 82,6 triệu USD, tăng 9,44%...

Thương vụ Việt Nam tại Đức

Nội dung liên quan