Hiện nay, EU là đối tác quan trọng đối với nhóm ngành cao su tự nhiên và sản phẩm cao su. Tuy là thị trường khó tính, nhưng đây là thị trường tiềm năng, có sức mua cao và còn nhiều dư địa, đặc biệt khi có Hiệp định EVFTA.
Năm 2023, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt hơn 9,4 tỷ USD bao gồm cao su thiên nhiên, sản phẩm cao su và gỗ cao su. Trong đó, EU là nhà nhập khẩu lớn thứ 3 với mặt hàng cao su thiên nhiên, giá trị đạt gần 94,3 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sản phẩm cao su sang thị trường EU ước đạt gần 375,3 triệu USD, nhiều nhất vẫn là sản phẩm lốp xe.
Quy định chống phá rừng của EU (EUDR) có hiệu lực từ ngày 29/6/2023 chỉ ra định nghĩa rộng hơn về suy thoái rừng bao gồm cả việc chuyển đổi rừng nguyên sinh hoặc rừng tái sinh tự nhiên thành rừng trồng hoặc thành đất có rừng khác.
Rừng sản xuất (chủ yếu trồng cây công nghiệp như cao su) vốn đang chiếm tới hơn 52% diện tích rừng của Việt Nam, có thể bị liệt vào khái niệm làm “suy thoái rừng”, có thể sẽ ảnh hưởng tới quyết định của EU trong việc phân loại mức độ rủi ro của Việt Nam.
Bên cạnh tiêu chí về không phá rừng, EUDR cũng bao gồm các tiêu chí khác, trong đó có tính hợp pháp về quyền sử dụng đất, đảm bảo đất có ranh giới rõ ràng và thông báo cho khách hàng về vị trí địa lý của lô đất và thời gian thu hoạch/sản xuất là những hạn chế của ngành cao su với hơn 260.000 hộ tiểu điền cùng mạng lưới thu mua phức tạp hiện nay.
Nguồn cung cao su tự nhiên đầu vào của Việt Nam tương đối đa dạng. Bên cạnh hàng trăm công ty và hàng trăm ngàn hộ tiểu điền trồng cao su tại Việt Nam, nguồn cung còn bao gồm nguồn nhập khẩu, chủ yếu từ Campuchia và Lào. Ở công đoạn chế biến, các nguồn cung này có thể được phối trộn với nhau để sản xuất các chủng loại phù hợp phục vụ xuất khẩu hoặc chế biến sâu trong nước.
Cao su tiểu điền phần lớn có quy mô nhỏ, khó có thể trực tiếp thực hiện chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo yêu cầu của thị trường. Một số mô hình liên kết qua nhiều khâu trung gian phức tạp, lỏng lẻo với các giao dịch không có hợp đồng nên tính pháp lý không cao.
Áp lực về chi phí đầu tư công nghệ để sản xuất đạt chuẩn vào châu Âu đã cao, giờ phải đầu tư thêm chi phí để việc đáp ứng các quy định này sẽ tạo nên gánh nặng cho nhiều doanh nghiệp. EUDR nêu rõ sẽ phân loại quốc gia hoặc vùng sản xuất cung cấp sản phẩm cho EU theo các nhóm “rủi ro cao”, “rủi ro trung bình” hay “rủi ro thấp” dựa trên các tiêu chí và bằng chứng mà EU thu thập được.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, ngành cao su Việt Nam có chuỗi cung phức tạp do chưa có sự quản lý nhà nước chặt chẽ đối với các bên liên quan, đặc biệt là hộ tiểu điền. Hiện nay, hơn 60% nguồn cung cao su thiên nhiên đến từ hơn 260 ngàn hộ tiểu điền khắp cả nước. Vì vậy, bên cạnh doanh nghiệp sản xuất, các hộ tiểu điền là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi các quy định về không gây mất rừng và bền vững của châu Âu được áp dụng do quá trình thẩm định yêu cầu nhiều hồ sơ, giấy tờ liên quan và tốn kém.
Do đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chủ động rà soát chuỗi cung ứng, xây dựng cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc, đánh giá rủi ro, cơ chế chia sẻ và phản hồi thông tin thông qua ứng dụng công nghệ tích hợp. Duy trì xây dựng các chuỗi cung nguyên liệu có chứng chỉ bền vững nhằm tạo cơ sở bước đầu giúp đáp ứng được các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Chủ động hợp tác với các doanh nghiệp nhập khẩu của EU để nắm bắt thông tin cập nhật về các quy định trong EUDR, đối thoại với nhà nhập khẩu về lộ trình từng bước thay đổi, điều chỉnh chuỗi cung hiện tại của doanh nghiệp, qua đó đáp ứng chặt chẽ các yêu cầu của EUDR.