| Thông tin thị trường quốc tế cập nhật 24/7 từ Bộ Công Thương
Tin tức

Bản tin thị trường Đức - số tháng 1.2025

Bản tin thị trường Đức - số tháng 1.2025, do Thương vụ Việt Nam tại Đức tổng hợp.

Tình hình ngoại thương của Đức tháng 11 và 11 tháng năm 2024

Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 11 năm 2024

127,3 tỷ euro

+2,1% so với tháng trước

-3,5% so với cùng tháng năm trước

Xuất khẩu trong 11 tháng năm 2024 đạt 1.427,8 tỷ euro, giảm 1,4% so với 11 tháng năm 2023

Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 11 năm 2024

107,6 tỷ euro

-3,3% so với tháng trước

-2,9% so với cùng tháng năm trước

Nhập khẩu trong 11 tháng năm 2024 đạt 1.207,8 tỷ euro, giảm 3,5% so với 11 tháng năm 2023

Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 11 năm 2024

+19,7 tỷ euro

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 67,8 tỷ euro vào tháng 11 năm 2024, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 55 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 10 năm 2024, xuất khẩu sang các nước EU giảm 1,7% và nhập khẩu từ các nước này giảm 4,4%.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 59,5 tỷ euro vào tháng 11.2024, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 52,6 tỷ euro. So với tháng 10 năm 2024, xuất khẩu sang các nước ngoài EU tăng 6,9%; nhập khẩu giảm 2,1%.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng 14,5% so với tháng 10 năm 2024, với giá trị xuất khẩu tăng lên 14 tỷ euro. Xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 4,2% đạt 6,6 tỷ euro, trong khi xuất khẩu sang Vương quốc Anh tăng 8,6% đạt 7,2 tỷ euro.

Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 11 năm 2024 đến từ Trung Quốc trị giá 13,4 tỷ euro, giảm 3,1% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ giảm 3,7% đạt 7,2 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh giảm 4,7% đạt 2,8 tỷ euro trong cùng kỳ.

Giá nhập khẩu, tháng 11 năm 2024

+0,6% so với cùng tháng năm trước

+0,9% so với tháng trước

Giá xuất khẩu, tháng 11 năm 2024

+1,2% so với cùng tháng năm trước

+0,3% so với tháng trước

Giá năng lượng giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước có tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu trong tháng 11 năm 2024. Giá nhập khẩu dầu thô rẻ hơn 11,6% so với cùng kỳ năm trước (+0,7% vào tháng 10 năm 2024). Giá các sản phẩm dầu khoáng giảm 10,9% vào tháng 11 năm 2023 (+1,6% vào tháng 10 năm 2024). Đặc biệt, giá nhiên liệu diesel và dầu sưởi ấm (-17,4%) và xăng (-14,6%) thấp hơn so với một năm trước. Giá xăng cũng giảm vào tháng 10 năm 2024 (-1,6%), trong khi giá nhiên liệu diesel và dầu sưởi ấm tăng 2,5% theo tháng.

Đặc biệt, giá điện tăng 27,2% so với tháng 11 năm 2023 và đắt hơn 33,3% so với tháng 10 năm 2024.

Giá nhập khẩu hàng tiêu dùng trong tháng 11 năm 2024 cao hơn 3,4% so với cùng kỳ năm trước (+0,9% vào tháng 10 năm 2024). Trong khi giá hàng tiêu dùng bền hầu như không tăng so với tháng 11 năm 2023, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước (+0,6% vào tháng 10 năm 2024), giá nhập khẩu hàng tiêu dùng không bền cao hơn 4,0% so với tháng 11 năm 2023 (+1,0% vào tháng 10 năm 2024).

Giá sản phẩm nông sản nhập khẩu trong tháng 11 năm 2024 cao hơn 8,5% so với tháng 11 năm 2023 (+2,5% so với tháng 10 năm 2024). Riêng ca cao thô đắt hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước (+114,8%); tăng 18,5% so với tháng trước. Giá cà phê xanh tăng 38,4% vào tháng 11 năm 2023 và tăng 14,9% vào tháng 10 năm 2024. Ngược lại, giá dưa chuột (-36,4%), hành tây (-31,2%) và lợn sống (-13,2%) chẳng hạn, lại giảm so với năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 12 năm 2024

+2,6% so với tháng 12/2023

+0,4% so với tháng 11/2024

Tỷ lệ lạm phát ở Đức, được đo bằng sự thay đổi theo năm của chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đứng ở mức +2,6% vào tháng 12 năm 2024. Điều này có nghĩa là tỷ lệ lạm phát đã tăng trở lại. Tỷ lệ này đứng ở mức +2,2% vào tháng 11 năm 2024 sau khi duy trì dưới mức hai phần trăm trong hai tháng (tháng 9 năm 2024: +1,6%; tháng 8 năm 2024: +1,9%). Cục Thống kê Liên bang (Destatis) báo cáo rằng giá tiêu dùng đã tăng 0,4% vào tháng 11 năm 2024. Tỷ lệ lạm phát trung bình hàng năm dự kiến ​​sẽ ở mức +2,2% vào năm 2024. Tỷ lệ lạm phát không bao gồm thực phẩm và năng lượng, thường được gọi là lạm phát cơ bản, dự kiến ​​sẽ là +3,1% vào tháng 12 năm 2024.

Giá sản xuất các sản phẩm công nghiệp, tháng 11 năm 2024

+0,1% so với tháng 11/2023

+0,5% so với tháng 10/2024

Giá năng lượng vào tháng 11 năm 2024 thấp hơn 2,4% so với tháng 11 năm 2023. Tuy nhiên, so với tháng 10 năm 2024, giá năng lượng đã tăng 1,8%. Giá thấp hơn đối với các sản phẩm dầu khoáng có ảnh hưởng lớn nhất đến tỷ lệ thay đổi theo năm đối với năng lượng. Giá sản phẩm dầu khoáng giảm 8,6% so với tháng 11 năm 2023 và tăng 1,0% so với tháng 10 năm 2024. Dầu sưởi ấm rẻ hơn 13,2% so với tháng 11 năm 2023 (+1,2% vào tháng 10 năm 2024). Giá nhiên liệu động cơ thấp hơn 8,4% so với một năm trước đó (+0,4% vào tháng 10 năm 2024).

Vào tháng 11 năm 2024, hàng tiêu dùng không bền đắt hơn 2,4% so với tháng 11 năm 2023 (+0,4% vào tháng 10 năm 2024), trong khi giá thực phẩm đắt hơn 2,8% so với cùng kỳ năm trước. So với cùng kỳ năm trước, giá bơ cao hơn nhiều (+42,9%; +2,3% vào tháng 10 năm 2024) và bánh kẹo cũng đắt hơn đáng kể (+23,9%; +3,9% vào tháng 10 năm 2024). Thịt bò đắt hơn 16,5% so với tháng 11 năm 2023 (+4,7% vào tháng 10 năm 2024). Ngược lại, giá thấp hơn so với cùng kỳ năm trước được ghi nhận vào tháng 11 năm 2024, đặc biệt là đối với bột ngũ cốc (-7,7%) và thịt lợn (-6,4%).

Hàng tiêu dùng bền có giá cao hơn 0,9% vào tháng 11 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước (không đổi so với tháng 10 năm 2024).

Sản xuất trong công nghiệp

Tháng 11 năm 2024 (theo thực tế, tạm thời):

+1,5% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)

-2,8% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)

Sự gia tăng trong sản xuất năng lượng (+5,6% so với tháng trước sau khi điều chỉnh theo mùa và theo lịch), xây dựng (+2,1%) và lĩnh vực "sản xuất thiết bị vận tải khác" (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, xe quân sự; +11,4%) có tác động đặc biệt tích cực đến hiệu suất chung.

Vào tháng 11 năm 2024, sản xuất trong ngành công nghiệp không bao gồm năng lượng và xây dựng đã tăng 1,0% so với tháng 10 năm 2024 sau khi điều chỉnh theo mùa và theo lịch. Sản xuất hàng hóa vốn tăng 1,4%, sản xuất hàng tiêu dùng tăng 0,9% và sản xuất hàng hóa trung gian tăng 0,5%.

Nguồn: Statistisches Bundesamt, Văn phòng Thống kê liên bang của Đức 

Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức

Theo số liệu của Cơ quan Thống kê Liên bang Đức (Destatis), kim ngạch xuất nhập khẩu của Đức với Việt Nam trong tháng 9 đạt trên trên 1,8 tỷ USD, tăng 11,3% so với tháng trước. Trong đó, xuất khẩu của Đức sang Việt Nam trong tháng 9 đạt trên 269,28 triệu USD, nhập khẩu từ Việt Nam đạt trên 1,56 tỷ USD lần lượt giảm 2,1% và tăng 22,5% so với tháng 9 năm 2023. Tính đến hết tháng 9 năm 2024, tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Đức với Việt Nam đạt 14,87 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Đức sang Việt Nam đạt gần 2,57 tỷ USD giảm 9%; kim ngạch nhập khẩu của Đức từ Việt Nam đạt 12,3 tỷ USD, tăng 11% so với 9 tháng năm 2023.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, 11 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Đức đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng 4,19% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 7,2 tỷ USD tăng 5,5% và nhập khẩu của Việt Nam từ Đức đạt trên 3,4 tỷ USD, tăng 1,52% so với cùng kỳ năm 2023, xuất siêu đạt trên 3,78 tỷ USD, tăng 9,38%.

* Về xuất khẩu

Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng:

+ Với nhóm nông thủy sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt trên 1,05 tỷ USD, tăng 37,53% trong đó hầu hết tất cả các mặt hàng có ghi nhận xuất khẩu trong nhóm này đều đạt tăng trưởng dương, cụ thể cà phê đạt trên 535,95 triệu USD tăng 39,39%; thuỷ sản trên 183,16 triệu USD, tăng 7,72%; hạt điều đạt trên 137,14 triệu USD, tăng 27,15%; hạt tiêu đạt trên 85,38 triệu USD tăng 138,4%; rau quả đạt trên 52,15 triệu USD tăng 63,76%; cao su đạt 56,14 triệu USD tăng 70,56%.

+ Với nhóm hàng chế biến chế tạo đạt trên 5,49 tỷ USD, kim ngạch tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 947,37 triệu USD, tăng 45,15%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt trên 1,18 tỷ USD tăng 7,52%; sản phẩm chất dẻo đạt trên 162,64 triệu USD, tăng 30,42%, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 79,88 triệu USD và tăng 31,33%.

Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm:

+ giày dép các loại đạt trên 680,54 triệu USD, giảm 22,54%;

+ hàng dệt may đạt 714,01 triệu USD, giảm 7,53%;

+ Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù đạt trên 177,13 triệu USD, giảm 0,96%;

+ Đồ chơi, dụng cụ thể thao đạt 114,28 triệu USD, giảm 31,64%.

* Về nhập khẩu

Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng:

+ thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt trên 27,14 triệu USD, tăng 121,23%

+ dược phẩm đạt trên 360,5 triệu USD, tăng 21,38%

+ sản phẩm hóa chất đạt trên 259,59 triệu USD, tăng 20,63%

+ sữa và sản phẩm sữa đạt trên 46,38 triệu USD, tăng 14,52%

+ gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 45,58 triệu USD, tăng 9,13%.

Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm:

+ ô tô nguyên chiếc đạt trên 16,54 triệu USD, giảm 81,04%

+ linh kiện phụ tùng ô tô đạt 42,88 triệu USD, giảm 61,37%

+ máy vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện đạt 141,41 triệu USD, giảm 12,42%

Về tình hình đầu tư của Đức tại Việt Nam

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư Việt Nam, trong 10 tháng năm 2024, Đức có 18 dự án đăng ký mới, số vốn đầu tư đăng ký mới là 38,52 triệu USD, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng thứ 18 trong tổng số 106 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Luỹ kế cho đến 31.10.2024, Đức có 476 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng số vốn là 2,78 tỷ USD, đứng thứ 17 trong số 148 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.

Thương vụ Việt Nam tại Đức

Nội dung liên quan