Thương vụ Việt Nam tại Đức cập nhật Bản tin thị trường Đức số tháng 12 năm 2025 để bạn đọc tham khảo.
Tình hình ngoại thương của Đức tháng 10 năm 2025
Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 10 năm 2025
131,3 tỷ euro
+0,1% so với tháng trước
+4,2% so với cùng tháng năm trước
Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 10 năm 2025
114,5 tỷ euro
-1,2% so với tháng trước
+2,8% so với cùng tháng năm trước
Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 10 năm 2025 là +16,9 tỷ euro.
Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 76,3 tỷ euro vào tháng 10 năm 2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 61,1 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 9 năm 2025, xuất khẩu sang các nước EU tăng 2,7% và nhập khẩu từ các nước này tăng 2,8%.
Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 55,1 tỷ euro vào tháng 10.2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 53,4 tỷ euro. So với tháng 9 năm 2025, xuất khẩu sang các nước ngoài EU giảm 3,3%; nhập khẩu giảm 5,4%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ giảm 7,8% so với tháng 9 năm 2025, với giá trị xuất khẩu đạt 11,3 tỷ euro. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ lại giảm trong tháng 10 năm 2025, sau khi tăng so với tháng trước. So với tháng 10 năm 2024, xuất khẩu sang Hoa Kỳ giảm 8,3% sau khi điều chỉnh theo lịch và mùa vụ. Xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 5,8% xuống còn 6,3 tỷ euro so với tháng 9 năm 2025. So với tháng trước, xuất khẩu sang Anh giảm 6,5% xuống còn 6,5 tỷ euro.
Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 10 năm 2025 đến từ Trung Quốc trị giá 13,8 tỷ euro, giảm 5,2% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ giảm 16,6% xuống còn 7,2 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh giảm 14,5% xuống còn 3,1 tỷ euro trong cùng kỳ.
Giá nhập khẩu, tháng 10 năm 2025
-1,4% so với cùng tháng năm trước
+0,2% so với tháng trước
Trong tháng 10 năm 2025, sự giảm giá năng lượng (-15,1% so với tháng 10 năm 2024) một lần nữa có tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu. So với tháng 9 năm 2025, giá năng lượng đã giảm trung bình 1,5%.
Giá nhập khẩu hàng hóa tư liệu sản xuất thấp hơn 0,5% so với cùng kỳ năm trước (+0,1% so với tháng 9 năm 2025).
Giá nông sản nhập khẩu thấp hơn 0,9% so với cùng kỳ năm trước (-0,9% so với tháng 9 năm 2025). So với tháng 10 năm 2024, giá lợn sống thấp hơn 22,9%; giá ca cao nguyên liệu giảm 10%; giá ngũ cốc giảm 7,7%. Mặt khác, giá cà phê xanh cao hơn 42,6%; giá hành tây tăng 26,6%.
Giá nhập khẩu hàng hóa trung gian cao hơn một chút so với cùng kỳ năm trước (+0,1%) và tăng trung bình 0,9% so với tháng 9 năm 2025.
Giá hàng tiêu dùng nhập khẩu cao hơn 0,6% so với năm trước. So với tháng 10 năm 2024, giá cả tăng cao hơn ở các mặt hàng sau: hạt phỉ đã bóc vỏ (+68,7%), cà phê (rang hoặc khử caffeine; +37,9%), thịt bò (+34,3%), thịt gia cầm (+26,6%) và hạnh nhân đã bóc vỏ (+23,3%). Giá nước cam nhập khẩu trong tháng 10 năm 2025 cao hơn 16,4% so với tháng 10 năm 2024 nhưng giảm đáng kể so với tháng 9 năm 2025 (-8,8%).
Giá xuất khẩu, tháng 10 năm 2025
+0,5% so với cùng tháng năm trước
+0,2% so với tháng trước
Xuất khẩu hàng tiêu dùng đắt hơn 0,9% so với tháng 10 năm 2024 nhưng rẻ hơn 0,3% so với tháng 9 năm 2025. Giá hàng tiêu dùng bền tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước (+0,2% so với tháng 9 năm 2025), và giá hàng tiêu dùng không bền tăng 0,8% so với tháng 10 năm 2024 (-0,4% so với tháng 9 năm 2025). Cà phê (đã khử caffeine hoặc rang) được xuất khẩu với giá cao hơn 47,0% so với tháng 10 năm 2024 (+0,9% so với tháng 9 năm 2025). Ngược lại, giá bơ và các sản phẩm phết từ sữa lại thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái (-29,6% so với tháng 10 năm 2024 và -18,3% so với tháng 9 năm 2025). Giá các sản phẩm như bột cacao, bơ cacao, chất béo và dầu cacao cũng giảm trong tháng 10 năm 2025, với mức giảm 19,3% so với tháng 10 năm 2024 và giảm 3,5% so với tháng 9 năm 2025. Giá đường giảm 14,7% so với tháng 10 năm 2024 (-7,0% so với tháng 9 năm 2025).
Giá các mặt hàng trung gian xuất khẩu cao hơn 0,7% trong tháng 10 năm 2025 so với tháng 10 năm 2024. So với tháng trước, giá các mặt hàng trung gian tăng 0,4%. Mức giá hàng hóa tư liệu sản xuất cao hơn 0,4% so với tháng 10 năm 2024 (+0,1% so với tháng 9 năm 2025).
Ngược lại, giá xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 9 năm 2025, giá giảm 0,9%.
Giá xuất khẩu năng lượng cũng thấp hơn so với tháng 10 năm 2024 (-5,0%). Tuy nhiên, so với tháng 9 năm 2025, giá tăng 1,9%. Giá các sản phẩm dầu mỏ giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước (-0,8% so với tháng 9 năm 2025), và giá khí đốt tự nhiên giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước (nhưng tăng 2,5% so với tháng 9 năm 2025)..
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 11 năm 2025
+2,3% so với tháng 11/2024
+0,2% so với tháng 10/2025
Tỷ lệ lạm phát ở Đức – được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước là +2,3% trong tháng 11 năm 2025. Tỷ lệ này cũng ở mức +2,3% trong tháng 10 năm 2025 và +2,4% trong tháng 9 năm 2025. Ngược lại, diễn biến giá cả năng lượng và thực phẩm tiếp tục có tác động kìm hãm trong tháng 11." So với tháng 10 năm 2025, giá tiêu dùng đã giảm 0,2% trong tháng 11 năm 2025.
Giá năng lượng trong tháng 11 năm 2025 thấp hơn 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Mức giảm giá năng lượng là -0,9% trong tháng 10 năm 2025. Từ tháng 11 năm 2024 đến tháng 11 năm 2025, giá năng lượng hộ gia đình giảm 1,2%. Người tiêu dùng đặc biệt được hưởng lợi từ giá điện giảm (-1,5%) và giá sưởi ấm khu vực giảm (-0,7%). Ngược lại, các sản phẩm năng lượng hộ gia đình như dầu sưởi nhẹ (+2,4%) và khí đốt tự nhiên (+0,5%) trở nên đắt hơn. Giá nhiên liệu tăng 1,6% so với tháng 11 năm 2024.
Giá thực phẩm trong tháng 11 năm 2025 cao hơn 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Từ tháng 11 năm 2024 đến tháng 11 năm 2025, đường, mứt, mật ong và các loại bánh kẹo khác (+9,0%, bao gồm sô cô la: +19,4%), cũng như thịt và các sản phẩm từ thịt (+4,2%, bao gồm thịt bò và thịt bê: +13,8%), vẫn đắt hơn đáng kể. Ngược lại, một số nhóm thực phẩm khác lại rẻ hơn so với năm trước, đặc biệt là chất béo và dầu ăn (-14,8%, bao gồm bơ -22,0%; dầu ô liu: -17,4%).
Giá dịch vụ trong tháng 11 năm 2025 cao hơn 3,5% so với cùng kỳ năm trước (so tháng 10 năm 2025: +3,5%). Từ tháng 11 năm 2024 đến tháng 11 năm 2025, giá cả tăng chủ yếu ở các dịch vụ vận tải hành khách đường sắt (+11,9%), vận tải hành khách kết hợp (+11,4%) và dịch vụ xã hội (+7,6%). Các gói du lịch (+7,1%), bảo hiểm vận tải (+6,9%) và dịch vụ chăm sóc sức khỏe nội trú (+6,5%) nằm trong số các dịch vụ đắt hơn đáng kể so với năm trước. Ngược lại, chỉ có một số dịch vụ rẻ hơn so với cùng kỳ năm trước, ví dụ như dịch vụ viễn thông (-0,5%).
Sản xuất trong công nghiệp
Tháng 10 năm 2025 (theo thực tế, tạm thời):
+1,8% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)
+0,8% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)
Sự phát triển tích cực trong sản xuất tháng 10 năm 2025, một phần là do sự tăng trưởng 3,3% trong sản lượng xây dựng so với tháng trước (sau khi điều chỉnh theo mùa và lịch). Sự tăng trưởng trong ngành cơ khí (+2,8%) và sản xuất thiết bị xử lý dữ liệu, sản phẩm điện tử và quang học (+3,9%) cũng đóng góp đáng kể vào kết quả chung. Ngược lại, sự sụt giảm sản lượng trong ngành công nghiệp ô tô (-1,3%) đã có tác động tiêu cực.
Sản xuất công nghiệp (sản xuất không bao gồm năng lượng và xây dựng) tăng 1,5% trong tháng 10 năm 2025 so với tháng 9 năm 2025, sau khi điều chỉnh theo mùa và lịch. Trong lĩnh vực công nghiệp, ghi nhận sự tăng trưởng ở cả ba nhóm chính: sản xuất hàng hóa vốn và hàng tiêu dùng đều tăng 2,1%, và sản xuất hàng hóa trung gian tăng 0,6%. Bên ngoài lĩnh vực công nghiệp, sản xuất năng lượng tăng 1,4%.
Nguồn: Statistisches Bundesamt, Cục Thống kê liên bang của Đức
Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức
Theo Cục Thống kê Liên bang Đức (Destatis), trong tháng 9 kim ngạch thương mại Việt Nam – Đức đạt gần 2,15 tỷ USD, tăng 17% so với tháng 9 năm 2024. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Việt Nam đạt trên 271 triệu USD; nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam đạt trên 1,87 tỷ USD, lần lượt tăng 0,3% và 18,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 9 năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Đức đạt trên 18,15 tỷ USD tăng 22,7% so với 9 tháng năm 2024, trong đó xuất khẩu từ Đức sang Việt Nam đạt khoảng 2,8 tỷ USD, nhập khẩu từ Việt Nam vào Đức đạt trên 15,35 tỷ USD, lần lượt tăng 8,8% và 25,7% so với cùng kỳ năm 2024.
Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 11 năm 2025, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Đức đạt trên 12,26 tỷ USD, tăng 15,2% so với 11 tháng đầu năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt khoảng 8,59 tỷ USD và nhập khẩu đạt trên 3,67 tỷ USD, lần lượt tăng 18,9% và 7,2% so với cùng kỳ năm 2024.
* Về xuất khẩu
Tăng trưởng xuất khẩu đạt được chủ yếu nhờ nhóm hàng nông thuỷ sản và nhóm hàng điện tử, cụ thể:
- Với nhóm nông thủy sản kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,68 tỷ USD, tăng 60,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 1,05 tỷ USD, tăng 97,5%; thuỷ sản đạt trên 201 triệu USD, tăng 9,8%; hạt điều đạt trên 194,18 triệu USD, tăng 41,6%; hạt tiêu đạt 114,79 triệu USD tăng 34,4%; rau quả đạt trên 75,05 triệu USD tăng 43,9%.
- Với nhóm hàng chế biến, chế tạo, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6,11 tỷ USD, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 1,25 tỷ USD, tăng 32,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt gần 1,3 tỷ USD, tăng 9,4%; dệt may đạt trên 822,75 triệu USD, tăng 15,2%. Một số mặt hàng ghi nhận giảm như điện thoại các loại và linh kiện đạt trên 721,86 triệu USD, giảm 12,4%; giày dép đạt trên 664,17 triệu USD, giảm 2,4%; đồ chơi, dụng cụ thể thao đạt trên 81,57 triệu, giảm 28,6%; sản phẩm mây, tre, cói thảm đạt trên 28,36 triệu USD, giảm 17,3%;
* Về nhập khẩu
Với nhóm mặt hàng chế biến, chế tạo, kim ngạch nhập khẩu từ Đức đạt trên 3,18 tỷ USD, tăng 8,2%; nổi bật là các mặt hàng máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt trên 1,39 tỷ USD, tăng 14,6%; dược phẩm đạt 367,54 triệu USD, tăng 2%; máy móc vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện đạt 205,88 triệu USD, tăng 45,6%.
Các mặt hàng ghi nhận mức giảm là nhập khẩu hóa chất đạt khoảng 244,74 triệu USD, giảm 31,5%; sản phẩm hóa chất đạt trên 246,47 triệu USD, giảm 5,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 42,83 triệu USD, giảm 0,9%...