| Thông tin thị trường quốc tế cập nhật 24/7 từ Bộ Công Thương
Tin tức

Bản tin thị trường Đức số tháng 11 năm 2025

Thương vụ Việt Nam tại Đức cập nhật Bản tin thị trường Đức số tháng 11 năm 2025 để bạn đọc tham khảo.

Tình hình ngoại thương của Đức tháng 9 năm 2025

Xuất khẩu (theo lịch và xuất khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 9 năm 2025

131,1 tỷ euro

+1,4% so với tháng trước

+2,0% so với cùng tháng năm trước

Nhập khẩu (theo lịch và nhập khẩu hàng hóa điều chỉnh theo mùa), tháng 9 năm 2025

115,9 tỷ euro

+3,1% so với tháng trước

+4,8% so với cùng tháng năm trước

Cán cân ngoại thương (lịch và điều chỉnh theo mùa), tháng 9 năm 2025 là +15,3 tỷ euro.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước EU lên tới 74,3 tỷ euro vào tháng 9 năm 2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt tổng cộng 59,3 tỷ euro (theo lịch và điều chỉnh theo mùa). So với tháng 8 năm 2025, xuất khẩu sang các nước EU tăng 2,5% và nhập khẩu từ các nước này tăng 1,2%.

Xuất khẩu hàng hóa của Đức sang các nước ngoài EU đạt 56,8 tỷ euro vào tháng 9.2025, trong khi nhập khẩu từ các nước này đạt 56,5 tỷ euro. So với tháng 8 năm 2025, xuất khẩu sang các nước ngoài EU không đổi; nhập khẩu tăng 5,2%.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng 11,9% so với tháng 8 năm 2025, với giá trị xuất khẩu đạt 12,2 tỷ euro. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng so với tháng trước, sau năm lần giảm liên tiếp (từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2025). So với tháng 9 năm 2024, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Hoa Kỳ giảm 14,0%. So với tháng 8.2025, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 2,2% xuống còn 6,7 tỷ euro, trong khi xuất khẩu sang Vương quốc Anh tăng 7,1%, xuống còn 7 tỷ euro.

Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 9 năm 2025 đến từ Trung Quốc trị giá 14,6 tỷ euro, tăng 6,1% so với tháng trước. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng 9,0% lên 8,7 tỷ euro. Nhập khẩu từ Vương quốc Anh tăng 20,0% lên 3,6 tỷ euro trong cùng kỳ.

Giá nhập khẩu, tháng 9 năm 2025

-1,0% so với cùng tháng năm trước

+0,2% so với tháng trước

Tác động lớn nhất đến diễn biến chung của giá nhập khẩu trong tháng 9 năm 2025 một lần nữa là sự sụt giảm của giá năng lượng, giảm 11,0% so với tháng 9 năm 2024. So với tháng 8 năm 2025, giá năng lượng tăng trung bình 1,1%. Tất cả các nguồn năng lượng đều rẻ hơn trong tháng 9 năm 2025 so với tháng 9 năm 2024: than đá giảm 18,6% (-1,8% so với tháng 8 năm 2025), dầu thô giảm 14,6% (-1,8% so với tháng 8 năm 2025), khí đốt tự nhiên giảm 11,2% (+4,8% so với tháng 8 năm 2025), điện giảm 6,3% (-5,0% so với tháng 8 năm 2025) và các sản phẩm dầu mỏ giảm 3,8% (+1,3% so với tháng 8 năm 2025).

Giá nhập khẩu hàng hóa trung gian thấp hơn 0,4% so với cùng kỳ năm trước (+0,4% so với tháng 8 năm 2025), trong khi giá hàng hóa vốn thấp hơn 0,5% so với cùng kỳ năm trước (-0,1% so với tháng 8 năm 2025).

Giá hàng tiêu dùng nhập khẩu tăng 1,1% trong tháng 9 năm 2025 so với cùng kỳ năm trước. Hàng tiêu dùng, đặc biệt là thực phẩm, đã chứng kiến ​​mức tăng giá đáng kể 7,2% so với tháng 9 năm 2024. Tuy nhiên, giá thực phẩm đã giảm 0,2% so với tháng 8 năm 2025. Giá hạt phỉ đã bóc vỏ (+83,1%), cà phê (rang hoặc không chứa caffeine; +39,8%), thịt bò (+33,3%), thịt gia cầm (+29,0%), nước cam (+28,8%) và hạnh nhân đã bóc vỏ (+26,9%) cao hơn đáng kể so với tháng 9 năm 2024. Ngược lại, đường (-28,8%) và dầu ô liu (-22,6%) rẻ hơn so với cùng kỳ năm trước.

Giá nông sản nhập khẩu trong tháng 9 năm 2025 cao hơn 1,9% so với cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn 0,9% so với tháng 8 năm 2025. Đặc biệt, cà phê thô đắt hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước (+35,9%), mặc dù đã giảm 1,0% so với tháng trước.

Giá xuất khẩu, tháng 9 năm 2025

+0,6% so với cùng tháng năm trước

+0,0% so với tháng trước

Hàng tiêu dùng xuất khẩu đắt hơn 1,6% so với tháng 9 năm 2024 (0,0% so với tháng 8 năm 2025). Giá hàng hóa lâu bền cao hơn 1,6% so với năm trước và hơn 1,5% so với tháng 9 năm 2024. Giá lương thực xuất khẩu trung bình đắt hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước (+4,7%, -0,5% so với tháng trước). Giá xuất khẩu cà phê (đã khử caffein hoặc rang xay) nói riêng cao hơn 47,1% so với tháng 9 năm 2024, nhưng rẻ hơn 1,2% so với tháng 8 năm 2025. Ngược lại, giá xuất khẩu đường rẻ hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước (-24,1%), nhưng đắt hơn 5,5% so với tháng 8 năm 2025. Khối ca cao, bơ ca cao, chất béo ca cao, dầu ca cao và bột ca cao rẻ hơn đáng kể trong tháng 9 năm 2025 so với cùng kỳ năm trước. Giá giảm 15,0% so với cùng kỳ năm trước và giảm 8,5% so với tháng trước.

Xuất khẩu hàng nông sản đắt hơn 0,9% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 8 năm 2025, giá giảm đáng kể (-3,0%).

Giá hàng hóa trung gian và tư liệu sản xuất xuất khẩu cao hơn 0,4% so với tháng 9 năm 2024. So với tháng trước, hàng hóa trung gian đắt hơn 0,2%, trong khi mặt bằng giá hàng hóa tư liệu sản xuất không đổi.

Xuất khẩu năng lượng rẻ hơn so với cùng kỳ năm trước (-3,2%). So với tháng 8 năm 2025, giá năng lượng giảm 0,5%. Các sản phẩm dầu mỏ giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước (+0,7% so với tháng 8 năm 2025), trong khi giá khí đốt tự nhiên thấp hơn 2,6% so với cùng kỳ năm trước (-0,8% so với tháng 8 năm 2025).

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tháng 10 năm 2025

+2,3% so với tháng 10/2024

+0,3% so với tháng 9/2025

Tỷ lệ lạm phát ở Đức dự kiến ​​sẽ đạt +2,3% vào tháng 10 năm 2025. Tỷ lệ lạm phát được đo bằng mức thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước. Dựa trên kết quả hiện có, Cục Thống kê Liên bang (Destatis) cũng báo cáo rằng giá tiêu dùng đã tăng 0,3% vào tháng 10 năm 2025.

Giá năng lượng trong tháng 10 năm 2025 thấp hơn 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Từ tháng 10 năm 2024 đến tháng 10 năm 2025, giá năng lượng hộ gia đình đã giảm 1,7%. Người tiêu dùng đặc biệt được hưởng lợi từ việc giá dầu sưởi ấm giảm (-6,0%). Giá điện (-1,4%) và giá sưởi ấm khu vực (-1,0%) rẻ hơn một chút so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá khí đốt tự nhiên (+0,9%) và củi, viên nén gỗ hoặc các nhiên liệu khác (+2,5%) đắt hơn trong số các sản phẩm năng lượng hộ gia đình. Giá nhiên liệu tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

Giá thực phẩm trong tháng 10 năm 2025 cao hơn 1,3% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy tốc độ tăng giá thực phẩm đã chậm lại đáng kể (tháng 9 năm 2025 so với tháng 9 năm 2024: +2,1%). Tỷ lệ lạm phát thực phẩm thấp nhất được ghi nhận lần cuối vào tháng 1 năm 2025 (+0,8%). Từ tháng 10 năm 2024 đến tháng 10 năm 2025, chất béo và dầu ăn đặc biệt rẻ hơn (-12,6%, bao gồm dầu ô liu: -22,7%; bơ: -16,0%). Rau cũng rẻ hơn so với năm trước (-4,0%, bao gồm khoai tây: -12,6%). Tuy nhiên, một số nhóm thực phẩm khác trở nên đắt hơn đáng kể so với năm trước, đặc biệt là đường, mứt, mật ong và các loại bánh kẹo khác (+8,2%, bao gồm sô cô la: +21,8%). Thịt và các sản phẩm từ thịt (+4,3%) và trái cây (+3,1%) cũng chứng kiến ​​mức tăng giá đáng kể.

Tỷ lệ lạm phát không bao gồm thực phẩm và năng lượng, thường được gọi là lạm phát cơ bản, vẫn giữ nguyên ở mức +2,8% vào tháng 10 năm 2025 (tháng 9 năm 2025: +2,8%).

Sản xuất trong công nghiệp

Tháng 9 năm 2025 (theo thực tế, tạm thời):

+1,3% so với tháng trước (điều chỉnh theo mùa và theo lịch)

-1,0% so với cùng tháng năm trước (lịch đã điều chỉnh)

Sự phát triển tích cực trong sản xuất trong tháng 9 năm 2025 so với tháng trước chủ yếu là do sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành công nghiệp lớn nhất nước Đức, ngành công nghiệp ô tô. Sản lượng được điều chỉnh theo mùa và theo lịch của ngành này đã tăng 12,3% so với tháng trước, sau khi giảm 16,7% vào tháng 8 năm 2025 do các yếu tố bao gồm ngày nghỉ lễ của nhà máy và việc chuyển đổi sản xuất. Sự gia tăng sản lượng thiết bị xử lý dữ liệu, sản phẩm điện tử và quang học (+5,1%) cũng có tác động tích cực đến kết quả chung. Ngược lại, sự sụt giảm của ngành cơ khí (-1,1%) lại có tác động tiêu cực.

Sản xuất công nghiệp (sản xuất không bao gồm năng lượng và xây dựng) đã tăng 1,9% trong tháng 9 năm 2025 so với tháng 8 năm 2025, sau khi điều chỉnh theo mùa và theo lịch. Trong lĩnh vực công nghiệp, cả ba nhóm chính đều ghi nhận mức tăng trưởng: sản xuất hàng hóa vốn tăng 3,8%, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng hóa trung gian đều tăng 0,2%. Ngoài lĩnh vực công nghiệp, sản lượng năng lượng tăng 1,3%, trong khi sản lượng xây dựng giảm 0,9%.

Nguồn: Statistisches Bundesamt, Cục Thống kê liên bang của Đức 

Thương mại song phương giữa Việt Nam và Đức

Theo Cục Thống kê Liên bang Đức (Destatis), trong tháng 7 kim ngạch thương mại Việt Nam – Đức đạt gần 2,28 tỷ USD, tăng 33% so với tháng 7 năm 2024. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của Đức sang Việt Nam đạt trên 409,89 triệu USD; nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam đạt khoảng 1,87 tỷ USD, lần lượt tăng 40% và 30,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 7 năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Đức đạt trên 13,99 tỷ USD tăng 23,7% so với 7 tháng đầu năm 2024, trong đó xuất khẩu từ Đức sang Việt Nam đạt trên 2,25 tỷ USD, nhập khẩu từ Việt Nam vào Đức đạt trên 11,74 tỷ USD, lần lượt tăng 11% và 26,5% so với cùng kỳ năm 2024.

Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 10 năm 2025, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Đức đạt trên 11,14 tỷ USD, tăng 15,1% so với 10 tháng đầu năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 7,78 tỷ USD và nhập khẩu đạt trên 3,36 tỷ USD, lần lượt tăng 19% và 7,2% so với cùng kỳ năm 2024.

* Về xuất khẩu

Tăng trưởng xuất khẩu đạt được chủ yếu nhờ nhóm hàng nông thuỷ sản và nhóm hàng điện tử, cụ thể:

- Với nhóm nông thủy sản, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 986,81 triệu USD, tăng 95%; thuỷ sản xấp xỉ 183 triệu USD, tăng 10%; hạt điều đạt trên 174,77 triệu USD, tăng 42%; hạt tiêu đạt 107,4 triệu USD tăng 35%; rau quả đạt trên 67,94 triệu USD tăng 41%.

- Với nhóm hàng chế biến, chế tạo, tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 1,08 tỷ USD, tăng 28%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt trên 1,18 tỷ USD, tăng 10%; dệt may đạt trên 736,54 triệu USD, tăng 16%, giày dép đạt trên 598,61 triệu USD, giảm 1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 82,91 triệu USD, tăng 33%.

* Về nhập khẩu

Các mặt hàng ghi nhận mức tăng là máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt trên 1,27 tỷ USD, tăng 15%; dược phẩm đạt 343,75 triệu USD, tăng 3%; máy móc vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện đạt 187,4 triệu USD, tăng 45%.

Các mặt hàng ghi nhận mức giảm là nhập khẩu hóa chất đạt trên 227,79 triệu USD, giảm 32%; sản phẩm hóa chất đạt trên 225,08 triệu USD, giảm 6%; phân bón các loại đạt 12,27 triệu USD, giảm 4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 39,19 triệu USD, giảm 3%...

Thương vụ Việt Nam tại Đức

Nội dung liên quan